Vũ Danh Thuận và việc mở mang “Kim ngân trường” Kiêu Kỵ

Thành hoàng thường là thiên thần tức những nhân vật có phép tắc biến hóa linh dị hoặc nhân thần tức những người có thật trong đời, có những công tích với nước với dân và thường là đã qua đời. Tuy nhiên vì trong quá trình xây dựng làng xóm, vẫn xuất hiện những người đang sống nhưng có quá nhiều đóng góp cho dân xã nên những người này cũng được dân xã tôn vinh xếp vào hàng Thành hoàng và gọi là hậu thần. Làng Kiêu Kỵ ở huyện Gia Lâm thuộc vào trường hợp này.

Nguyên làng này vốn đã thờ danh tiếng đời Trần là Nguyễn Chế Nghĩa làm phúc thần Thành hoàng. Tới thế kỷ 19, làng lại có thêm một hậu thần một tấm bia do toàn xã tạo lập hiện còn được lưu giữ ở làng, lập vào tháng 9 năm Minh Mạng thứ 9 (1828) đã kể lại sự việc này: Số là vào thời gian trước đó, dân làng ngay thuế khóa cũng không kham nổi chứ đừng nói tới tu sửa đình miếu và phục dịch các việc công ích như đắp đê, tế lễ… có một người làng tên là Vũ Danh Thuận, khi ấy là hương trưởng kiêm hội trưởng Văn Hội, ông nghĩ tới tình làng nghĩa xóm và thực trạng nên đã “cung tiến gạch ngói gỗ lạt cho bản xã và nhận việc tu sửa các tòa đền miếu, kể cả lễ vật…” (*). Thực đáng quý. Một người, một gia đình mà đứng ra xuất tiền tài vật liệu để dựng lại đền miếu cho dân có nơi thờ cúng trang trọng. Không chỉ thế, ông Thuận còn “lại để cho 60 mẫu đất, giúp thêm trên 1000 cọc tiền và 2 dật bạc. Giúp cho 26 đội đắp đê 210 sọt thóc…”.

Nếu bia chỉ ghi có trên thì cũng đủ để nhận định rằng Vũ Danh Thuận thật là một con người cao cả, ăn ở với dân làng có tâm đức lại khiêm tốn. Nhưng bia còn ghi nhiều điều lý thú hơn: Ông còn góp phần chấn hưng và phát triển nghề “Luyện kim ngân” nấu vàng bạc đem lại cho làng “mối lợi ngày càng nhiều, của cải càng giàu vậy… Mọi người trong ấp từ các bậc kỷ lão đến trùm lềnh viên chức, già trẻ đầu đến, sở hễ đến kỳ huyện đều được chia tiền lợi có thứ bậc. Sưu thuế không bị thúc khách nên dân lưu tán trở về”.

Tấm bia còn ghi nhiều tình tiết về tấm lòng cao cả của Vũ Danh Thuận: như năm Ất Dậu (1825) cả xã nhất trí kể từ tháng 8 biếu ông số tiền lời luyện vàng bạc hàng tháng là 20 quan. Vậy mà ông không nhận, biếu lại dân làng làm công quỹ. Nhờ vậy mà tới năm Mậu Tý 1828 lụt lớn, vỡ đê, ông bàn với các chức sắc đem tiền lời của khoản công quỹ nọ là 200 quan mua gạo phát cho dân làng v.v…

Chính với những nghĩa cử như vậy mà vào năm 1828 này, toàn dân quyết định là sau khi ông mất “mỗi khi tế tiên sư thì phải tế ông để được hưởng lễ vật ở xưởng luyện…” sẽ thờ ông ở bệ thờ gian bên trái của trường luyện kim ngân (xưởng luyện vàng bạc) và hàng năm mỗi kỳ luyện vàng bạc và xuân thu nhị kỳ phải có riêng một lễ để cúng ông Thuận. Văn bia ghi rõ: “Lễ vật y như lễ vật ở đình miếu khác”. Như vậy dân làng đã coi ông như một vị hậu thần, một hậu tổ được thờ cúng “tiên sư” tức là một danh nhân đáng trọng.

Tại nhà thờ họ Vũ do chính ông tạo dựng hiện còn một tấm bia cũng do ông lập vào tháng 10 năm Minh Mạng thứ 9 (1828), ông có kể về mình: “… Tôi nghĩ từ thuở nhỏ, nhờ phúc ấm tổ tiên… thực hành gia phong cần kiệm năng nhặt chặt bị mà có được gia tư thế này…”. Rõ ràng là một con người thẳng thắn, làm giàu bằng chính bộ óc và đôi tay cùng với sự cần kiệm. Con người đó lại rất biết tác dụng của học vấn đã đành, không muốn con cháu thất học mà còn khuyến khích học giỏi nên bên cạnh việc dành một phần ruộng cấp cho học trò giỏi trong làng, ông đã để riêng 5 sào ruộng dành cho những con cháu sau này thi hương lọt vào trường đệ tam trở lên thì được nhận phần ruộng đó để canh tác lấy lương thực mà ăn học tiếp.

Nên nói thêm là những tấm bia còn lại ở Kiêu Kỵ cho biết ông Thuận mở mang nghề “Luyện kim ngân” tức nghề luyện nấu vàng bạc non tuổi thành vàng mười, bạc mười. Vì chỉ có vàng bạc già tuổi, tức tinh chế kỹ lưỡng, thì mới có thể dát mỏng làm vàng quì dùng trong sơn thếp. Có thể việc dát vàng ở Kiêu Kỵ đã có từ trước nhưng vàng mười thì luyện chưa tinh. Đến đời Vũ Danh Thuận mới mở mang trường luyện vàng bạc tại tấm bia ở “Luyện kim ngân trường” có ghi sự việc này. Luyện vàng bạc thực ra là công đoạn đầu của việc dát vàng.

Ở Kiêu Kỵ có Vũ Quý Tạo thi hương đỗ tứ trường khoa Nhâm Ngọ (1762) làm hội trưởng Văn Giáp là có đỗ đạt thời Cảnh Hưng. Vũ Danh Thuận cũng thuộc họ Vũ này. Cũng họ Vũ này, tới thời nay có Vũ Nguyên Bác tức vị tướng tài của quân đội ta, được nhiều người biết với tên gọi: Tướng Nguyễn Sơn.

Từ đường họ Vũ ở Kiêu Kỵ rất đáng được giữ lại vì đây là di tích của những con người tài đức của làng xã, có tác dụng trong việc giáo dục truyền thống cần cù, nhân ái, sáng tạo vì dân vì nước cho các thế hệ sau này.

Vũ Danh Thuận