Trần triều Hoằng Nghị Đại vương và những tồn nghi?

Các bộ quốc sử thời Lý, Trần, Lê, Nguyễn đều không cho biết rõ thân sinh của Trần Thủ Độ là ai. Phần lớn các nhà sử học xưa và nay đều thống nhất ở một điểm: Trần Thủ Độ là chú họ của Trần Cảnh (vua Trần Thái Tông), quê hương ông ở làng Lưu Xá, huyện Ngự Thiên, lộ Long Hưng v.v…

Đã từ xưa đến nay, nhiều nhà nghiên cứu lịch sử nhà Trần và cuộc đời của Thái sư Trần Thủ Độ vẫn chưa tìm được câu trả lời rõ ràng về thân phụ, thân mẫu cùng các thế hệ con, cháu của ông.

Năm 1995, Viện Sử học Việt Nam và Sở Văn hóa Thông tin Thái Bình phối hợp tổ chức hội thảo: “Trần Thủ Độ con người thời Trần” tại Thái Bình. Trong hội thảo, cụ Dương Quảng Châu qua bài viết: “Trần Thủ Độ với Thái Bình”, lần đầu tiên “công bố” thân sinh của Trần Thủ Độ là Trần Hoằng Nghị Đại vương. Tư liệu của cụ Châu đưa ra không dựa vào các cơ sở khoa học chính sử mà cơ bản là căn cứ vào các tài liệu điền dã, khảo sát các địa phương trong tỉnh Thái Bình và tỉnh bạn.

Năm 2004, Trung tâm UNESCO thông tin tư liệu lịch sử và văn hóa Việt Nam đã xuất bản sách Nhà Trần và con người thời Trần. Trong tập sách nói trên, đồng tác giả (Dương Quảng Châu – Phạm Hóa) với bài “Đất và người Long Hưng trong sự nghiệp phù Trần”, thông qua các tư liệu điền dã, hai ông đã tái khẳng định một lần nữa về thân sinh của Trần Thủ Độ là Trần Hoằng Nghị.

Trong vài năm gần đây, một số tác giả khi viết về Trần Thủ Độ đã dựa vào tư liệu điền dã, được công bố của cụ Dương Quảng Châu và cho rằng cha đẻ của ông là Trần Hoằng Nghị.

Nhưng có đúng “Trần triều Hoằng Nghị Đại vương” là Trần Hoằng Nghị không? Ông có đúng là thân sinh của Trần Thủ Độ không? Đây có phải là tên khai sinh do bố mẹ đặt cho Trần Hoằng Nghị hay đây chỉ là mỹ tự triều đình ban phong cho một người nào đó được thờ tự ở đền Bách Linh (Hạ Liệt, Thái Hà)?

Để trả lời câu hỏi trên, chúng ta cần tìm hiểu các thông tin tư liệu điền dã mà tác giả Dương Quảng Châu đã nêu ra trong hai bài viết của mình.

– Trong bài “Trần Thủ Độ với Thái Bình” (sđd, tr.237), tác giả viết: “… Các bô lão ở Trực Nội (tổng Trực Nội, nay thuộc hai xã Đông Quang – Đông Xuân, huyện Đông Hưng, Thái Bình) vào vùng Động Núi, được các bô lão ở địa phương cho biết: Ở vùng này có nhiều nơi thờ An Hạ vương. Theo thần phả ghi An Hạ vương là con thứ hai Trần Hoằng Nghị Đại vương, em An Quốc Đại vương, là anh Trần Thủ Độ”.

“… Trong một trận chiến đấu, Trần Hoằng Nghị và một số chỉ huy đã chết trận cùng với một số chiến sĩ, được nhân dân Hạ Liệt (nay là xã Thái Hà, Thái Thịnh) lập đền thờ ở cánh đồng Hạ Liệt, coi như thờ Bách Linh, trận vong chiến sĩ, ngôi Duệ Hiệu cao nhất là “Trần triều Hoằng Nghị Đại vương, thượng đẳng phúc thần”. Các cố lão ở Hạ Liệt cũng cho biết về văn tế đọc đầu tiên là nguyên tổ Hoằng Nghị Đại vương trước rồi mới đến Bách Linh chư vị, thần quan, thần tướng, trận vong chiến sĩ vong linh.

Ai đẻ ra Hoằng Nghị Đại vương? Theo các nguồn tư liệu điền dã và thành văn đã sưu tầm được thì cụ Trần Hấp, con trai cụ Trần Kinh đã sinh ra hai người con trai là Trần Lý và Trần Hoằng Nghị…” (sđd, tr.228).

– Nhưng lạ thay, trong bài: “Đất và người Long Hưng trong sự nghiệp phù Trần” (đồng tác giả Dương Quảng Châu – Phạm Hóa) in ở sách Nhà Trần và con người thời Trần lại viết nhiều chi tiết rất khác so với bài “Trần Thủ Độ với Thái Bình” của cùng tác giả. Cụ thể là: “… Đến thời Trần Kình (chữ Hán là Trần Kinh) đánh cá ở vùng sông nước Tức Mặc (Nam Định) thành thân với người con gái ở đấy, sinh ra Trần Hấp, Trần Mẽ, Trần Quả (tức Trần Hoằng Nghị)” (tr.82, bài “Đất và người Long Hưng trong sự nghiệp phù Trần”)… “Hai người con trai của cụ Trần Hoằng Nghị là Trần An Quốc, Trần An Bang (Trần Thủ Độ), đời sau đều là danh tướng nhà Trần” (sđd, tr.83).

… “Trần An Quốc lấy vương phi Lý Cao Tông là Đàm Chiêu Trinh. Bà Đàm Chiêu Trinh gắn bó với tướng quân An Hạ và ấp Hà Nội từ đấy.

Trần An Quốc từng làm trấn thủ Diễn Châu, được phong làm An Hạ vương đời vua Trần Thái Tông” (sđd, tr.85).

Chỉ cần đọc kỹ hai bài viết của cùng tác giả Dương Quảng Châu ở hai sách (in cách nhau 9 năm) chúng ta đã thấy nảy sinh rất nhiều mâu thuẫn và sự khác biệt rất rõ ràng về bố mẹ, anh em của Trần Hoằng Nghị và Trần Thủ Độ:

– Ở bài “Trần Thủ Độ với Thái Bình” (bài 1), tác giả dựa vào tư liệu điền dã và cho rằng Trần Hấp là bố của Trần Hoằng Nghị và Trần Hoằng Nghị lại sinh ra ba người con trai là Trần An Quốc, Trần An Hạ, Trần Thủ Độ. Nhưng trong bài “Đất và người Long Hưng trong sự nghiệp phù Trần” (bài 2) thì tác giả lại đưa ra một thông tin khác hẳn: “Trần Kinh sinh ra Trần Hấp, Trần Mẽ, Trần Quả (tức Trần Hoằng Nghị”). Rõ ràng ở đây có sự mâu thuẫn về tư liệu điền dã mà tác giả đã đưa ra. Ta thấy thật là vô lý khi thì cho rằng Trần Hấp là bố của Trần Hoằng Nghị, lúc thì lại nói Trần Hấp là anh của Trần Hoằng Nghị. Lúc thì tác giả bài viết Trần Hoằng Nghị có ba người con (bài 1). Nhưng ở (bài 2) thì chính tác giả lại đánh đồng Trần An Quốc với Trần An Hạ là một và cho rằng Trần Hoằng Nghị sinh được hai người con trai là Trần An Quốc và Trần Thủ Độ. Không hiểu tài liệu điền dã này tác giả thu nhận ở đâu mà lại có sự mâu thuẫn đến khó hiểu như vậy.

Chúng tôi đã về làng Miễu (xã Đông Quang, thuộc tổng Trực Nội trước đây, nay thuộc huyện Đông Hưng) để tìm hiểu về Trần An Quốc (Trần An Hạ). Cùng đi có nhà nghiên cứu dân gian Nguyễn Tiến Đoàn và dịch giả Vũ Công Hoan, hai ông đã dịch lại tấm bia làng Miễu (theo các cụ già trong làng thì tấm bia này có từ thời nhà Trần và được đưa từ lăng mộ của vợ chồng An Hạ vương vào cửa hậu cung của đình làng từ năm 1961). Nội dung văn bia đã cho thấy nhiều vấn đề khác hẳn với tư liệu của tác giả Dương Quảng Châu đưa ra. Theo lời dịch văn bia của hai ông Nguyễn Tiến Đoàn và Vũ Công Hoan thì An Hạ vương (không phải là Trần An Hạ hay Trần An Quốc),  ông là cháu vua Lý Anh Tông, chứ không phải là con Trần Hoằng Nghị: “Lý triều An Hạ vương, Anh Tông hoàng đế chi tôn, Quý Thịnh hầu dã, nguyên sách Động Nhuế Hương Nhân” (trích Miếu lăng bi ký – làng Miễu). An Hạ vương lấy bà Đàm Chiêu Trinh (chứ không phải Trần An Quốc lấy bà Đàm Chiêu Trinh như cụ Dương Quảng Châu đã lầm tưởng). Do có công lao đánh giặc Chiêm xâm lược nên ông được triều đình nhà Lý tặng phong tước Quý Thịnh hầu. Sang thời nhà Trần ông trấn giữ châu Nghệ An và khi chết được vua Trần ban phong là An Hạ vương. Cho đưa hài cốt về chôn cất tại hương Động Nhuế – đất được phong ấp của hai vợ chồng An Hạ vương. Triều đình đã giúp cho dân làng xây lăng mộ, đền miếu, dựng bia để thờ hai vợ chồng ông…

Qua tìm hiểu về tấm bia và thân sinh của An Hạ vương, chúng tôi được cụ Nguyễn Lại Tô (sinh 1926) là người từng trông nom di tích lịch sử đình làng Miễu hàng chục năm nay và các cụ cao tuổi ở địa phương cho biết: Các cụ chưa từng bao giờ vào khu vực Động Núi – Nghệ An để tìm hiểu về An Hạ vương và các cụ cũng không biết vùng Động Núi là thuộc địa phương nào của Nghệ An. Thần tích và thần phả làng Miễu cùng không hề ghi An Hạ vương là con của Trần Hoằng Nghị. Các cụ khẳng định bài viết ở hai sách đã dẫn trên của tác giả Dương Quảng Châu là không đúng sự thật; và không chính xác. Cụ Nguyễn Lại Tô khẳng định An Hạ vương không phải họ Trần mà là họ Lý. Khi hai vợ chồng An Hạ vương chết, ông đã được triều đình nhà Trần ban cho quốc tính (mang họ Trần) vì theo các cụ già ở làng Miễu thì trên văn bia đã khắc rất rõ: “Gia phong hoàng tông vinh tộc” (cho mang họ vua – họ Trần) nếu đã là họ Trần thì cần gì vua phải gia phong là hoàng tông vinh tộc? Rõ ràng đây chỉ là sự ban quốc tính của triều đình nhà Trần đối với An Hạ vương.

Trong bài “Trần Thủ Độ với Thái Bình” có nhắc tới đền thờ Trần triều Hoằng Nghị Đại vương ở cánh đồng Hạ Liệt, Thái Hà, Thái Thụy. Chúng tôi đã trao đổi với nhà nghiên cứu dân gian Nguyễn Tiến Đoàn và dịch giả Vũ Công Hoan về ý nghĩa nội dung chính xác của câu: “Trần triều Hoằng Nghị Đại vương, thượng đẳng phúc thần”. Hai ông đều cho rằng: Ở câu trên cần hiểu là: đây là vị phúc thần cao nhất (thượng đẳng phúc thần) được triều đình nhà Trần ban tặng mỹ tự là Hoằng Nghị Đại vương.

Rõ ràng đây là mỹ tự của vị phúc thần tại đền Hạ Liệt (nếu có đền) chứ không phải như nhiều người lầm tưởng là tên người: Trần Hoằng Nghị. Trong bài “Trần Thủ Độ với Thái Bình”, viết: “Trong một trận chiến đấu, Trần Hoằng Nghị và một số chỉ huy đã chết trận, cùng với một số chiến sĩ, được nhân dân Hạ Liệt (nay là xã Thái Hà, Thái Thụy), lập đền thờ ở cánh đồng Hạ Liệt, coi như thờ Bách Linh, trận vong chiến sĩ, ngôi duệ hiệu cao nhất làng “Trần triều Hoằng Nghị Đại vương, thượng đẳng phúc thần”. Các cố lão ở Hạ Liệt cũng cho biết về văn tế đầu tiên là: Nguyên tổ Hoằng Nghị Đại vương trước rồi mới đến Bách Linh, chư vị, thần quan, thần tướng, trận vong chiến sĩ vong linh” (sđd, tr.228).

Qua tìm hiểu ở xã Thái Hà, huyện Thái Thụy, chúng tôi đã phát hiện ra sự nhầm lẫn rất đáng tiếc của tác giả Dương Quảng Châu. Thực tế ở xã Thái Hà không có thôn Hạ Liệt. Theo sách Tên làng xã Thái Bình qua các đời của đồng tác giả Bùi Thọ Ty – Nguyễn Đình Giốc, xuất bản năm 1990 (VHTT Thái Bình) và sách Địa danh Thái Bình xưa và nay (Nguyễn Thanh, Phạm Minh Đức, Bùi Duy Lan, Sở VH-TT Thái Bình xuất bản tháng 12-2005) thì thôn Hạ Liệt, Phất Lộc, Phù Liệt, Trung Liệt trước Cách mạng tháng Tám 1945 thuộc tổng Thượng Liệt, huyện Đông Quan. Sau Cách mạng tháng Tám, cả 4 thôn này đều thuộc xã Đằng Giang. Năm 1955, xã Đằng Giang đổi tên thành Thái Giang (nay thuộc huyện Thái Thụy) (sđd, tr.392).

Xã Thái Hà (Thái Thụy) thành lập năm 1955. Ở đây có làng Thuyền Quan, thời nhà Lê gọi là làng Cù Khê. Vào đầu thế kỷ XVI, con sông chảy gần làng có ngã ba gọi là Ngã Ba Cun (hay Côn Giang). Hoàng giáp Thượng thư Quách Hữu Nghiêm đi thuyền qua khu vực này đã bị sóng xoáy đánh đắm thuyền. Ông và quân lính đi theo đều bị tử nạn ở đây. Để tưởng nhớ vụ đắm thuyền của quan Thượng thư Quách Hữu Nghiêm, dân làng đã bỏ tên làng Cù Khê và đổi thành làng Thuyền Quan thuộc tổng Trực Hoài, huyện Thanh Quan, phủ Tiên Hưng. Thực tế ở cánh đồng làng Cù Khê (xã Thái Hà) có một ngôi đền ở cánh đồng nhưng đây là đền nhân dân xây dựng để tưởng nhớ Quách Hữu Nghiêm cùng quân lính (gọi là đền Bách Linh). Nhân thần được thờ ở đền là Quách Hữu Nghiêm (Quách Đình Nghiêm?) chứ không phải là Trần Hoằng Nghị.

Lần tìm về thôn Hạ Liệt, xã Thái Giang và căn cứ vào thư mục thần tích, thần sắc (TTKHXH&NVQG – Viện TTKHXH xuất bản 1966) thì trước đây tổng Thượng Liệt, huyện Thanh Quan có mười làng. Trong đó có hai làng: Hạ Làng và làng Hạ Liệt. Điều đáng chú ý là cả hai làng này cùng với 8 làng khác thuộc tổng Thượng Liệt xưa đều không có đền miếu nào thờ: “Trần triều Hoằng Nghị Đại vương”. Cụ thể Hạ Liệt (làng) thờ hai vị nhân thần là Bảo Anh, Đông Hải. Thiên thần được thờ là Tây Hải, Nam Hải.

Hạ Làng (tên nôm: Làng Hạ Liệt) thờ hai vị nhân thần: Bảo Anh, Đông Hải. Hai vị thiên thần: Tây Hải, Nam Hải.

Như vậy đã rõ ở cánh đồng Hạ Liệt, Thái Giang không có thờ Trần Hoằng Nghị. Xã Thái Hà thì không có thôn hay làng Hạ Liệt và lại càng không thờ Trần Hoằng Nghị. Đây quả là điều mâu thuẫn đến khó hiểu mà chỉ có tác giả hai bài viết nói trên mới lý giải nổi. Nhưng đáng tiếc cụ Dương Quảng Châu đã mất.

Trong bài “Trần Thủ Độ với Thái Bình”, tác giả căn cứ theo lời ông trưởng tộc họ Trần ở làng Ứng Mão (làng Mẹo, xã Thái Phương, Hưng Hà) cho biết: Vị thủy tổ họ Trần ở làng này là Hoằng Nghị Đại vương và: “Ở giữa làng có chợ, bên chợ có đền vua ông xây thời Trần, trong kháng chiến chống Pháp, đền bị phá, hiện thu gom thờ chung với nhà thờ đại tông họ Trần ở làng Phương La (Ứng Mão) (sđd, tr.27). Căn cứ theo thần tích, thần sắc thì làng Xuân La xưa thuộc tổng Lập Bái (huyện Hưng Nhân, tỉnh Thái Bình). Các vị nhân thần được thờ ở đình (đền) làng có 3 người là: Trang Nghị Đại vương, Trấn Quốc Đại vương, Thiên (Thiêm) Quan Đại vương.

Nếu Hoằng Nghị Đại vương là người được “thờ ở đền vua ông” thì nhất định ông phải có tên trong thần tích, thần sắc của làng. Nhưng trong thần tích, thần sắc ở làng Xuân La nói riêng, huyện Hưng Hà nói chung, chúng ta không thể tìm được vị nhân thần nào được gọi là Hoằng Nghị Đại vương. Phải chăng mọi người đã lầm tưởng Hoằng Nghị Đại vương là Trang Nghị Đại vương. Chúng ta hoàn toàn có cơ sở để tin rằng ở làng Phương La (làng Mẹo), Thái Phương có một vị thủy tổ họ Trần về đây lập nghiệp dựng làng, hoặc truyền nghề cho dân làng v.v… Nhưng vị thủy tổ đó không thể là Hoằng Nghị Đại vương được. Vì đây chỉ là mỹ tự được triều đình ban tặng cho một người nào đó chứ không phải là tên khai sinh do bố mẹ ông đặt cho. Rất có thể đó là Trang Nghị Đại vương hoặc Trấn Quốc Đại vương đã và đang được nhân dân làng Xuân La coi như thành hoàng và được thờ tự từ xa xưa cho tới nay.

Mong rằng các nhà nghiên cứu lịch sử Trung ương, địa phương sớm làm sáng tỏ vấn đề này, để tránh sự hiểu lầm đáng tiếc cho hậu thế mai sau về nhân vật không có thực “Hoằng Nghị Đại vương”.