Giáo sư Văn Tạo với công trình Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam – những chứng tích lịch sử

Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam được xem là nạn đói thảm khốc nhất trong lịch sử đất nước, đã cướp đi tính mạng của hơn hai triệu người và để lại hậu quả tang thương cho biết bao thế hệ. Đây là sự kiện lịch sử lớn cần được đi sâu nghiên cứu về ý nghĩa khoa học và thực tiễn, góp phần làm sáng tỏ sự thật lịch sử về tội ác của quân phiệt Nhật đối với nhân dân Việt Nam, lên án chiến tranh xâm lược hủy diệt, củng cố tăng cường sự hiểu biết và tình hữu nghị giữa hai dân tộc Việt Nam – Nhật Bản. Vì vậy, năm 1995, hai Giáo sư Văn Tạo và Furuta Moto (đại diện cho Tiểu ban hợp tác Việt – Nhật nghiên cứu về nạn đói năm 1945 ở Việt Nam) đã chủ biên và cho ra mắt công trình Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam – những chứng tích lịch sử. Công trình ra đời đã giúp cho công chúng có cái nhìn sâu sắc, toàn cảnh về sự kiện này. Đến nay, đã hơn mười năm trôi qua kể từ ngày công bố, thành quả to lớn của hai Giáo sư và tập thể cán bộ thực hiện công trình đã được trao giải thưởng cấp Nhà nước năm 2010. Tạp chí Xưa&Nay đã có cuộc phỏng vấn Giáo sư Văn Tạo để hiểu hơn về ý nghĩa của công trình khoa học này.

Xưa&Nay: Thưa Giáo sư, trong rất nhiều vấn đề về lịch sử Việt Nam, vì sao Giáo sư lại chọn vấn đề nạn đói năm 1945 để nghiên cứu, xin được biết đôi điều về những khó khăn và thuận lợi trong quá trình thực hiện đề tài?

  1. Văn Tạo: Đề tài nạn đói năm 1945 được biết đến từ làng tôi, 500 khẩu thì chết một phần ba, có nhà chết một nửa, có nhà chết hết. Tôi đau buồn từ đó, trong cái tâm tôi khi làm sử học, tôi cũng nghĩ rằng cần phải làm rõ, sau này lên Việt Bắc, đến khi vào Ban Văn Sử Địa thì mới có điều kiện tiếp xúc với tài liệu liên quan. Tôi đã nghĩ rằng, làm gì thì làm nhưng lịch sử về Cách mạng tháng Tám thì không bỏ qua được, đặc biệt về sự kiện nạn đói khủng khiếp năm 1945. Tôi bắt đầu chú ý đến từ khi còn công tác ở Việt Bắc nhưng điều kiện còn khó khăn, vì thế chưa thể thực hiện nghiên cứu được về sự kiện này.

Cho đến nay, hơn 60 năm đã trôi qua, nhưng trong ký ức của nhân dân Việt Nam, nạn chết đói năm 1945 vẫn còn là một cơn ác mộng, một nỗi đau nhức nhối, khó quên. Trong lương tri nhân loại, đó vẫn là một sự thực lịch sử cần làm rõ, một tội ác cần lên án.

Tại sao vậy? Bởi vì, với nhân dân Việt Nam, hàng triệu người chết đói đến nay tuy đã xương tan thịt nát, nhưng vẫn còn để lại đau thương trong lòng con cháu họ. Tổn thất này chưa được ai bù đắp và những băn khoăn, day đứt vẫn còn tồn tại trong lòng những người đang sống. Cụ thể ở xã Tây Lương, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình, gia đình ông Tô Trạch (còn gọi là Tô Nuôi, vì đi làm con nuôi người khác mà được cứu sống) có 4 người, chỉ còn lại một mình ông. Nếu tính cả dòng họ Tô có 35 người, chỉ còn sống sót 4 người (tức chết đói 31 người). Hay như gia đình cụ Hoàng Phác, bốn thế hệ chung sống với nhau cộng tất cả là 31 người, chết đói mất 26 người, chỉ còn sống sót 2 và 2 người tha phương cầu thực, đến nay vẫn còn mất tích.

Những người còn sống sót này đã từng đặt câu hỏi: Ông bà, anh em, chú bác họ chết vì đâu? Kẻ nào đã gây nên nạn đói khủng khiếp cướp đi mất cả những người thân của họ? Họ yêu cầu những câu hỏi này phải được giải đáp, những nợ nần này phải được đền trả. Hơn thế nữa, cho đến nay hàng trăm nấm mồ của những người chết đói còn chôn chung một hố (gọi là những nấm mồ “tập thể”), tức đào một hố to rồi xếp xác người chết đói chồng lên nhau, vì xác chết quá nhiều, không có điều kiện chôn cất tử tế được. Có hố chôn tới hàng chục, hàng trăm người, vẫn chưa được cải táng. Có nơi do yêu cầu cần xây dựng mới đã cải táng, nhưng những nấm mồ mới đó vẫn chưa được tu tạo.

Ai có trách nhiệm giải quyết những tồn tại lịch sử này?

Còn trong nhân loại, nỗi đau của mỗi dân tộc do phát xít gây ra cũng là nỗi đau chung của mọi con người có lương tri trên trái đất.

Trong Hội thảo khoa học với chủ đề “Hòa bình châu Á và vai trò của Nhật Bản” do Ủy ban Đoàn kết Á, Phi, Mỹ Latinh của Nhật Bản tổ chức vào tháng 12 năm 1992 ở Tokyo mà tôi có tham dự, tại hội thảo, các nhà khoa học đã nhấn mạnh đến hậu quả nghiêm trọng của chiến tranh Thái Bình Dương do quân phiệt Nhật gây ra. Tất cả tập trung sự quan tâm vào “nỗi đau khổ không chỉ của riêng ai”.

Đó là nỗi đau:

– Về khoảng hơn ba triệu người Nhật Bản đã bị chôn vùi trong chiến tranh.

– Hơn hai triệu người Việt Nam chết đói do quân phiệt Nhật gây nên.

– Những nạn nhân Trung Quốc bị sát hại trong cuộc thảm sát ở Nam Kinh.

– Hàng nghìn chiến sĩ du kích Philippin đã bị quân phiệt Nhật tiêu diệt.

– Hàng vạn nhà yêu nước Malaixia bị truy lùng và giết hại.

Và đáng chú ý hơn nữa là nỗi đau về hàng vạn phụ nữ Triều Tiên bị quân phiệt Nhật hãm hiếp, giết chóc.

Trong kế hoạch hai điểm về châu Á công bố vào tháng 9 năm 1994, Thủ tướng Nhật đã nêu rõ: Hành động của nước ta trong quá khứ không những chỉ làm cho nhân dân nước ta phải chịu đựng nhiều hy sinh mà còn để lại cho nhân dân các nước láng giềng châu Á những vết thương mà đến nay vẫn còn khó điều trị. Với tinh thần hối hận sâu sắc trước những nỗi buồn và nhũng nỗi đau khổ khó chịu đựng nổi của nhiều người do hành vi xâm lược và thống trị thuộc địa của nước ta gây ta, tôi nghĩ rằng: con đường mà Nhật Bản phải đi theo trong thời gian tới là quyết không làm chiến tranh và tập trung toàn lực lượng xây dựng hòa bình thế giới. Đồng thời, với mỗi nước bị xâm lược và bị tổn thất, chính phủ Nhật đã từng bước có sự bồi thường thỏa đáng.

Năm 1994, tôi nhận được thư của ông Furuta Moto, Giáo sư trường Đại học Tokyo, Chủ tịch thường trực Hội Hữu nghị Việt – Nhật, về vấn đề ông được thừa kế một số tiền theo di chúc của người cha trước khi qua đời, là dành cho công việc có ích liên quan đến Việt Nam, người cha đó luôn ủng hộ và khích lệ ông Furuta Moto nghiên cứu tại Việt Nam. Và Giáo sư đã dùng số tiền đó cho chương trình hợp tác khoa học của Hội Hữu nghị Việt – Nhật về đề tài “Quan hệ Việt – Nhật thời kỳ 1940-1945” và đề nghị tôi chủ trì.

Vậy là mọi khó khăn về tài chính đã được tháo gỡ. Cùng với sự quan tâm giúp đỡ của Lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta, đặc biệt là các tầng lớp nhân dân đồng tình ủng hộ trong suốt quãng thời gian dài chúng tôi tiến hành nghiên cứu, khai thác tư liệu từ nhiều nguồn và chủ yếu là khảo sát, điều tra thực địa trên 23 điểm thuộc 21 tỉnh, thành từ Quảng Trị trở ra, công việc phải khẩn trương bởi những nhân chứng ngày một già yếu và mất đi, sẽ bất lợi cho việc thu thập cứ liệu lịch sử.

Qua ba đợt điều tra 1992, 1993-1994, 1994-1995, đã huy động nhân lực của hàng trăm nhà nghiên cứu ở trung ương và địa phương cùng với sự lãnh đạo của các cấp chính quyền của các tỉnh, thành, huyện, xã và hàng vạn nhân chứng và nhân dân địa phương, công trình đã được hoàn tất với công sức của cả một tập thể cán bộ nghiên cứu thuộc Viện Sử học Việt Nam mà người chủ trì là tôi cùng GS. Furuta Moto.

Công trình này cũng đã nhận được sự ủng hộ nhiệt tâm của những người còn sống có người thân chết vì nạn đói, họ làm với tấm lòng như một sự trả nghĩa, một nén nhang thắp cho những người thân của họ.

Những người làm công trình này cũng thực tâm muốn gửi đến toàn nhân loại một thông điệp: Hãy lên án chiến tranh xâm lược hủy diệt, củng cố hòa bình, tăng cường hữu nghị hợp tác giữa các dân tộc trên thế giới.

Xưa&Nay: Xin cảm ơn Giáo sư!