Trần Công Hiến – người khởi dựng thành Đông

Tháng 6 năm 1802 (tháng 7 năm Nhâm Tuất), một tháng sau khi Gia Long chiếm Bắc Hà, Phạm Đình Hổ có tới Mao Điền. Ông viết: “Năm Nhâm Tut (1802) có quan Ngô Hu người Thanh Chương làm hip trn đó, ta mi t kinh đô v yết kiến. Ta có đi chơi xem xung quanh trn thành…” và ông phê phán: Đinh đô đặt trn mà ch ly cho gn nơi thanh viên, tin vic chy trm, không để ý đến vic công th sau này thì sao có th khng chế được sơn hi, bo v cho chn bang k được ?”

Tháng 8 năm Quý Hợi (9/1803) vua Gia Long ra Bắc Hà lần thứ hai, đi kinh lý qua Hải Dương, trấn phên đậu của Thăng Long, cũng sớm nhận ra sự bất hợp lý của việc đặt trấn sở Hải Dương tại Mao Điền. Năm Giáp Tý (1804) vua Gia Long ra Bắc Hà lần thứ ba để tiếp sứ nhà Thanh ở Thăng Long đã quyết định di trấn sở Hải Dương về phía Đông 15 km trên ngã ba sông Kẻ Sặt và sông Hàm Giang (nay là sông Thái Bình).

Trấn thủ Hải Dương đương nhiệm Trần Công Hiến là người thực thi lệnh di trấn sở từ Mao Điền về địa phận Bình Lao trang, Hàn Giang, Hàn Thượng. Vì thế trấn Hải Dương còn được gọi là trấn Hàn. Hải Dương ở phía đông của Thăng Long nên được gọi là tỉnh Đông. Và “Hi Dương tnh thành” – thành  Hải Dương – được gọi là Thành Đông.

Chợ – Hải Dương – Marché (Ngày Xửa Ngày Xưa – 1911)

Thành Đông được xây dựng theo kiểu Vauban là kiểu thành phòng ngự rất hiệu quả ở Châu Âu thế kỷ 17 – 18. Các thành lớn như thành Hà Nội, thành Nam Định… đều xây dựng theo kiểu này. Thành Đông buổi đầu đắp bằng đất. Năm Minh Mạng thứ 5 (1824) gia cố thêm bằng đá ong lấy từ thành nhà Mạc ở Đồ Sơn. Thành có hình lục giác đều, trung tâm ở vào khoảng ngã tư Máy xay hiện nay. Từ trung tâm đến các góc thành dài chừng 500 m. Ngoài thành có hào sâu bao quanh. Hào thành qua cống Ba cửa (hiện nay vẫn còn, trên đường An Ninh) nối với sông Kẻ Sặt thông tới sông Thái Bình. Đây chính là đường thủy quan trọng tiếp tế lương thực vũ khí cho binh sĩ trong thành và là đường liên lạc với Thăng Long và các trấn thành khác.

Trần Công Hiến hiệu là Vạn An – quê làng Chương Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi, sinh trưởng trong một gia đình nho học, thuở nhỏ có theo đuổi việc bút nghiên đèn sách. Ông học giỏi song đất nước có chiến tranh nên không thể xuất chính bằng con đường khoa cử. Ông theo đuổi nghề võ, có quân công được phong là Trung quân chính thng hu đồn, kiêm lý Ngũ đồn, Khâm sai Chưởng cơ. Năm 1802, được phong làm Trấn thủ Hải Dương, tước Ân Quang hầu. Ông có nhiều tác phẩm hiện còn lưu giữ ở thư viện quốc gia Hà Nội.

Là vị trấn thủ đầu tiên của Hải Dương, ở vị trí này, hơn một chục năm liền “ông đã ly kinh s làm búa rìu cai tr muôn dân phiên trn“. Ca ngợi công đức của ông, một văn quan đương thời đã hạ bút viết những lời như sau: “May có v trn thn min Đông (quan trn th Hi Dương) bng d bc công hu, tài ví nghìn dm trường thành và thi thư thánh hin thì sut đời yêu thích. Nếu các quan trn hết thy đều như quan trn min Đông thì thiên h s không có sách gì là không được đọc“.

Ông thực sự là nhà nghiên cứu về Hải Dương. Trong buổi đầu triều mới, lòng người còn ly tán, ông chú trọng khuyến khích dân chúng khôi phục các nghề nông tang, mở mang việc học hành. Ông từng cấp đất công cho dân nghèo ở làng Đôn Thư (tên nôm là Cáy, Tháng) xã Hậu Bổng, huyện Gia Lộc, gần bến đò Tràng Thưa và còn cấp thêm một vạn quan tiền để mở mang sản xuất. Ông mất năm 1917 khi giữ chức trấn thủ Hải Dương được 15 năm. Sau khi ông mất dân làng Đôn Thư nhớ ơn ông, đã lập đền thờ, hàng năm làm lễ vào ngày sinh (21/4) và ngày mất (12/9) âm lịch. (Theo Di tích lch s văn hóa Vit Nam tr.255 – 256).

Hải Dương là một vùng đất văn hiến lâu đời, nổi tiếng trong việc học hành thi cử. Với tầm nhìn xa trông rộng của một vị quan đầu trấn, giàu nhiệt huyết với nền văn chương thư tịch nước nhà, Trần Công Hiến từng bước ổn định đời sống dân lành, đồng thời lưu tâm tới việc học hành. Bản thân ông là người ham học, yêu thích thơ văn “c đời nghin ngp thi ca” nên ông đã dấn thân vào công việc sưu tầm, trước tác. Điều đó thúc đẩy quá trình hình thành Hải Học Đường. Hải Học Đường là một nhà in sách Hán Nôm do trấn thủ Trần Công Hiến sáng lập, tồn tại ở bên cạnh, phía trái của Thành Đông hồi đầu thế kỷ XIX. Ông vừa là người chủ xướng, vừa là một thành viên tích cực làm sống dậy vùng đất văn hiến Hải Dương xưa, tạo điều kiện truyền bá di sản văn hoá thành văn của dân tộc.

Qua những ấn phẩm của Hải Học Đường, ta thấy ngoài Trần Công Hiến còn các thành viên tích cực khác như trợ giáo Trần Đạm Trai, đốc học Trung Chính Bá, trợ giáo Thời Bình Nam, phong cốc giám sinh Bùi Dã Sỹ. Trần Huy Phác hiệu Đạm Trai biên soạn và đề tựa cuốn sách Hi Dương phong vt chí. Đây là tập sách đầu tiên do Hải Học Đường biên soạn. Ông được Trần Công Hiến đánh giá cao và cho là “Tp đại thành chi huyn“. Cuốn sách được Bùi Dã Sỹ viết lời bạt. Ân Quang Hầu Trần Công Hiến trông coi việc khắc in. Cuốn sách Hi Dương phong vt chí có hai bài thơ nôm song thất lục bát: Hi Dương phong vt khúc dài 604 câu tóm lược các nội dung trình bày trong phần Hán Văn, được coi là của Trần Huy Phác và một bài nữa là Hi Dương thu trình lược dài 188 câu được coi của Trần Công Hiến bởi trong đoạn mở đầu, tác giả có nói về việc được giao sứ mệnh nắm giữ trấn Hải Dương và ông đã rất thông thuộc miền đất ấy.

Ngô Thì Nhậm khi làm Đốc đồng – một chức quan tương đương với Trấn thủ – ở Hải Dương trước đây đã từng viết Hi Dương chí lược ghi chép tóm tắt về miền đất Hải Dương. Đến Hi Dương phong vt chí của Hải Học Đường thì vùng đất văn hiến này đã được ghi chép đầy đủ hơn “t núi sông nhân vt, phong tc th nghi, cho đến bách công k ngh đều mô t k càng.”

Ngoài việc biên soạn sách mới, Hải Học Đường còn tiến hành sưu tầm các văn bản cổ, rồi cho in lại. Hải Dương tuy là miền đất văn hiến, nhưng khối thư tịch cổ phần lớn do chép tay, lại trải qua chiến tranh liên miên thời Trịnh – Nguyễn phân tranh, và khí hậu ẩm ướt khắc nghiệt nên đã bị thất tán hoặc mai một đi nhiều. Hải Học Đường đã cất công sưu tầm trong dân gian, huy động các thuộc quan trong nội trấn và các trí thức địa phương cùng tham gia. “Mi khi vic công nhàn ri, hi thăm khp các thuc quan ph huyn cùng các v hương cng mi cũ trong trn xem có nhng di co còn sót li (Danh thi hợp tuyển). Nhờ vậy trong khoảng thời gian ngắn, Hải Học Đường đã sưu tầm được nhiều tư liệu có giá trị về thơ văn của các danh nhân và tài liệu tham khảo có giá trị, dùng cho học tập của các nho sinh.

Về thơ văn đã sưu tầm được những tác giả nổi tiếng từ thời Trần, Lê đến thời Nguyễn như: Nguyễn Hiền, Mạc Đĩnh Chi, Lê Quý Đôn, Phạm Nguyễn Du, Phan Huy Ích, Phạm Quý Thích… Có tác giả chỉ tuyển chọn được một phần: có tác giả lại sưu tầm được gần như toàn bộ tác phẩm như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phạm Nguyễn Du…

Về tài liệu tham khảo cho giảng dạy học tập, Hải Học Đường đã sưu tầm được khá nhiều sách như: ng chế t lc tuyn, Hoàng lê ng chế thi, Lch khoa sách lược, Danh phú hp tuyn, Danh văn tinh tuyn… trong đó gồm nhiều thể loại dùng làm mẫu để giảng dạy phục vụ cho thi cử, từ thơ, phú, dụ, minh, luận, tụng đến tứ lục văn sách những tài liệu không thể thiếu của các môn sinh.

Sau khi sưu tầm văn bản, phần tiếp theo của Hải Học Đường là chỉnh lý biên tập, viết lời tựa, lời bạt giới thiệu sách – việc này đòi hỏi phải có trình độ hiểu biết, tri thức sâu rộng để có thể “ch rườm rà thì bt b, ch thiếu sót thì b sung” (S tp toát yếu). Điều rất quan trọng là thái độ làm vịêc nghiêm túc, khoa học “phàm nhng gì có liên quan ti vic làm sáng t văn nghĩa phân bit đúng sai, đều chng dám b qua”.

Khâu cuối cùng là khắc ván in sách. Những người thợ lành nghề nhất của phường khắc gỗ Hồng Lục – Liễu Tràng đã được huy động (giao cho hai xã Hồng Tràng san khắc  Danh phú hp tuyn). Nếu căn cứ vào cuốn sách đầu tiên của Hải Học Đường là Hi Dương phong vt chí in vào năm 1811 – có thể suy ra việc hình thành Hải Học Đường là khoảng vài năm trước đó – tới năm 1817 khi Trần Công Hiến qua đời, thì Hải Học Đường đã tồn tại và hoạt động trong khoảng 10 năm.

Đặc điểm nổi bật của các văn bản in tại đây là tên Hải Học Đường được in ở hầu hết bản tâm các sách và tên Ân Quang hầu Trần Công Hiến, cùng đội ngũ tham gia biên tập cũng được in ngay trang đầu. Tại viện nghiên cứu Hán Nôm hiện còn lưu giữ hơn 12 ấn phẩm của Hải Học Đường. Những ấn phẩm này không chỉ có ý nghĩa đối với đương thời chấn hưng Hán học mà còn giúp lưu giữ cho hậu thế những áng văn chương trong nền văn hiến lâu đời của dân tộc Việt Nam. Trong số hơn 300 nhà in có tên ghi trong kho sách Hán Nôm thì chưa có một nhà in nào cũng đề cập tới vấn đề này như Hải Học Đường đã làm. Trong tác phẩm Mô hình Vit Nam và Trung Quc do nhà xuất bản Đại học Harvard ấn hành năm 1971, Alexander Woodside sau khi đánh giá tình hình in ấn sách qua các triều đại Việt Nam, đã nhắc đến Trần Công Hiến, vị chủ soái của Hải Học Đường với nhiều ngưỡng vọng. Chúng ta trân trọng công tích của Trần Công Hiến, vị trấn thủ khởi dựng Thành Đông, vị chủ soái của Hải Học Đường, cùng các nhà in khác, đã lưu giữ lại cho đời sau những di sản văn chương Hán Nôm vô giá.

Hơn nửa thế kỷ sau khi Trần Công Hiến qua đời, vào năm 1874 khi Phạm Phú Thứ nhậm chức Tổng đốc Hải Yên (Hải Dương – Quảng Yên), ông đã  cho dựng lại nhà xuất bản Hải Học Đường ở Hải Dương để khắc in sách nói về công pháp quốc tế, kỹ thuật hàng hải, phương pháp khai thác than đá, khoa học phổ thông… để phổ biến rộng rãi trong nước. Đến đầu thế kỷ XX các nhà yêu nước trong phong trào Đông Du, Duy Tân đã cho in lại các sách loại này tại Hà Nội, coi như là Tân Thư, tồn tại đến ngày nay.

Lưu Y Đức