Qua một văn bản của Lê Duẩn ngẫm về những suy nghĩ của ông

Trong số các tài liệu mà tôi tìm thấy trong Phòng lưu trữ của Viện Kinh tế Việt Nam, có một văn bản mang tên: “Đồng chí Lê Duẩn phát biểu tại Hội nghị Trung ương lần thứ 24”. Thời điểm được ghi là : 13/08/1975. Tài liệu được in ronio, dày 14 trang. Căn cứ theo lời văn thì thấy rằng đây là bản gỡ băng trực tiếp từ một bài nói của ông, nhằm chuẩn bị cho những cuộc thảo luận tại Hội nghị Trung ương lần thứ 24. Câu đầu tiên của bài phát biểu là: “Tôi phát biểu một số ý kiến để các đ/c tham khảo trước khi đi vào thảo luận…”.

Đây là một tài liệu rất thú vị, vì qua đó có thể thấy được những suy nghĩ của nguyên Bí thư thứ nhất Lê Duẩn vào những ngày tháng đầu tiên sau khi giải phóng miền Nam.

Trong Văn kiện Đảng toàn tập, tập 36, năm 1975, không thấy có tài liệu này. Có lẽ vì đó là bài văn nói, mà muốn chuyển thành văn viết thì tất nhiên phải được chính ông xem lại. Nhưng đến khi chuẩn bị cho Văn kiện Đảng toàn tập thì ông đã  không còn nữa, mà không ai có thể làm thay ông việc này. Vì vậy, trong Văn kiện Đảng Toàn tập năm 1975 chỉ có Báo cáo của Bộ Chính trị trước Hội nghị Trung ương lần thứ 24 và sau đó là có Nghị quyết của Hội nghị, được ghi là: Ngày 29/09/1975. Như vậy bài phát biểu kể trên có lẽ chỉ là bài nói có tính chất gợi ý của ông trước khi đi vào thảo luận tại Hội nghi TƯ 24.

Vì đây là bài phát biểu trực tiếp và được gỡ băng trung thực với văn nói, nên nó chưa  được “hoàn chỉnh” về mặt văn vẻ. Nhưng có lẽ chính vì thế nó lại có ưu điểm là phản ảnh khá trung thực những suy nghĩ rất tức thì và cũng rất bộc trực của bản thân ông sau những ngày trực tiếp quan sát thực tế ở Miền Nam.

Điều rất có ý nghĩa đối với giới nghiên cứu lịch sử hiện nay là: Khi xem xét những phân tích và đánh giá của Lê Duẩn về tình hình Miền Nam và những chủ trương của ông đối với kinh tế cả nước sau giải phóng, chúng ta thấy rằng nó có nhiều khía cạnh hơi khác so với những văn kiện chính thức của Hội nghị Trung ương 24 hơn một tháng sau đó và càng không giống với những văn kiện chính thức của Đại hội Đảng lần thứ IV/1976 hơn 1 năm sau đó. Ngược lại, nó gần gũi hơn với sự đánh giá tình hình kinh tế của Đại hội Đảng lần thứ VI/1986, trong đó chứa đựng rất nhiều những cách suy nghĩ về một nền kinh tế thị trường, một nền kinh tế mở, một nền kinh tế nhiều thành phần, nhấn mạnh tới việc sử dụng tối đa những tiềm lực của mọi thành phần kinh tế để phát triển…

Hiện nay, chúng tôi chưa có điều kiện để tìm hiểu kỹ hoàn cảnh hình thành những tư duy đó của ông và cũng chưa có điều kiện để tìm hiểu những lý do nào  đã  làm cho những tư tưởng này của ông không được quán triệt đầy đủ  hoặc đã được điều chỉnh tại Hội nghị Trung ương lần thứ 24, mà phải tới gần 10 năm sau đó nó mới đi vào  đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước.

Tại Hội nghị Chính trị đặc biệt tháng 3-1964. Từ phải sang: Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp.

Như chúng ta biết, Lê Duẩn là con người mà nhiều người cho là “suốt đời suy nghĩ, tìm tòi”. Đúng. Ông có bản tính không thỏa mãn với những gì cũ kỹ, có sẵn. Trong tư duy của ông luôn thể hiện những cố gắng cao độ trong sự vận động tìm tòi, phát hiện, phủ định cái cũ, nhiều khi phủ định chính mình, nhằm mở ra những hướng mới…

Tài liệu ngắn ngủi này phản ảnh một cung đoạn rất sắc nét trong những dòng suy nghĩ của Lê Duẩn về  những vấn đề kinh tế Việt Nam.

Có thể nêu lên mấy suy nghĩ rất quan trọng sau đây trong bài phát biểu của ông:

Thứ nhất, ông thẳng thắn nói lên một sự thật tuy bình thường, thậm chí là tất yếu, nhưng không phải ai cũng có thể nói ra: ông cho rằng trước một thực tế rất mới mẻ của miền Nam sau ngày giải phóng, thì những cách suy nghĩ, những cách đánh giá, cách phân tích, cách lựa chọn giải pháp của mỗi người tất nhiên không thể một lúc giống nhau. Sự khác nhau đó là bình thường. Đó là phép biện chứng của nhận thức, của tư duy. Nhưng từ lâu chúng ta có thói quen ngại nói ra những cái gì là không giống người khác trong suy nghĩ. Từ cái ngại đó mà đã có thói quen ngộ nhận hoặc cố tình tạo ra ngộ nhận rằng luôn luôn có sự nhất trí cao giữa những bộ óc chủ chốt trong những vấn đề chủ yếu của đất nước. Nhưng sự nhất trí như thế không bao giờ là cái “tự thân”, mà chỉ có thể là kết quả của những gặp gỡ, đối thoại, thuyết phục và điều chỉnh giữa những ý kiến khác nhau. Lê Duẩn đã nói được điều đó ngay trong đoạn mở đầu của bài phát biểu:

“Chúng ta xưa nay tưởng đã nhất trí với nhau, nhưng thực ra chưa phải nhất trí lắm đâu… Chính những cái gì rất chung và rất quan trọng đó mà ta nắm giống nhau, thì khi đi vào cụ thể càng dễ giống nhau hơn” (1).

Thứ hai, ngay sau khi giải phóng miền Nam khoảng 2 tuần, Lê Duẩn đã trực tiếp vào Nam quan sát và tìm hiểu tình hình. Chỉ trong một thời gian rất ngắn, ông đã có một cách nhìn khá độc lập về thực trạng kinh tế miền Nam không lệ thuộc vào những khung lý thuyết có sẵn. Ông đánh giá khá tích cực về hàng loạt ưu điểm của nền kinh tế thị trường ở miền Nam. Chẳng hạn: ông không quá nhấn mạnh vào cái gọi là chủ nghĩa thực dân mới với những tính chất ăn bám, mục nát, phồn vinh giả tạo, với những bản chất phản động của giai cấp tư sản mại bản… Ngược lại ông lưu ý tới những sự thật không thể chối cãi được là cách làm ăn có hiệu quả của kinh tế tư nhân, kể cả kinh tế tư bản, với năng suất lao động cao hơn, dù là bóc lột thì người bị bóc lột cũng có đời sống khá hơn… Ông nói:

Tại sao chúng nó là tư bản, chúng nó bóc lột người ta dữ, mà năng suất của nó vẫn cao. Vì nó là tư bản nhưng nó đi theo quy luật của nó, nó bóc lột nhưng mà vẫn tiến lên… Bây giờ nông dân ở miền Nam họ làm rất khá, mà nông dân thì phần nào hoá tư sản rồi”.

Thứ ba, qua thực tế của mô hình kinh tế miền Nam, ông đã so sánh trở lại với mô hình kinh tế miền Bắc và ông thẳng thắn thừa nhận nhiều nhược điểm của mô hình kinh tế ở miền Bắc trong thời kỳ xây dựng CNXH. Ông nói:

“Xưa nay ở miền Bắc chúng ta có một số sai lầm, là vì chúng ta đã đi sai quy luật… Nay có được miền Nam là để chúng ta thấy lại cho rõ hơn nữa. Còn ta chủ nghĩa xã hội nhưng chưa đi đúng quy luật xã hội chủ nghĩa của ta, đúng mặt này nhưng không đúng mặt kia, cho nên ta cứ chập chờn mãi, chòng chành mãi” (2).

“Tại sao người thợ ở ngoài này không bằng người thợ ở trong kia? Mình trả lời làm sao? Anh là chủ nghĩa xã hội mà tại sao anh lại không được bằng trong kia, anh trả lời làm sao? Đảng ta phải có trách nhiệm về những điều sai như vậy. Có thể vì chiến tranh, vì nhiều thứ, tôi đồng tình như vậy, nhưng trong đó cũng có khuyết điểm của mình chứ không phải không có khuyết điểm đâu” (3).

Thứ tư, từ cách nhìn nhận về kinh tế miền Nam và nhìn nhận về những nhược điểm của nền kinh tế miền Bắc, Lê Duẩn đã đưa ra những gợi ý về phương hướng và chính sách kinh tế cho miền Nam và cho cả nước. Quan điểm của ông lúc đó là không nên vội vã tiến hành cải tạo đối với công thương nghiệp tư doanh. Còn đối với nông nghiệp, chưa nên cưỡng ép nông dân miền Nam vào các hợp tác xã. Việc đó sẽ tạo ra sự bất mãn của nông dân và sự sa sút của sản xuất nông nghiệp. Ông nói:

“Miền Bắc trước đây phải hợp tác hoá ngay lập tức… Nhưng miền Nam bây giờ không thể làm như vậy. Miền Nam bây giờ phải để cho giai cấp tư sản phần nào đấy, phải cho nó phát triển phần nào đã. Phải để kinh tế gồm mấy thành phần thì nông dân mới theo ta, liên minh mới chặt chẽ. Bắt hợp tác hoá là không đúng, năng suất thấp xuống thì hỏng hết cả, họ sẽ không theo giai cấp vô sản nữa, không thống nhất được đâu. Người nông dân làm ra những sản phẩm, người ta muốn bán, nếu chúng ta không cho bán thì nông dân chọi lại với chúng ta, nguy hiểm lắm, không thể được. Nếu chúng ta không có một hình thức kinh tế để kéo nông dân đi tới thì ta không thống nhất được. Vì vậy Bộ Chính trị sau khi nghiên cứu thấy rằng cần phải để mấy thành phần kinh tế là quy luật cần thiết trong giai đoạn bước đầu này” (4).

Những nhận định đó của ông đã được thực tiễn những năm 1978-1979 chứng minh là đúng: Sau khi vội vàng ép buộc nông dân vào các tập đoàn sản xuất thì nông nghiệp sa sút một cách nghiêm trọng: 13,5 triệu tấn năm 1976 xuống 12,2 triệu tấn năm 1988. Khi áp đặt hệ thống thu mua theo giá kế hoạch thì nông dân phản ứng gay gắt, đã “ chọi lại chúng ta” và sản lượng lương thực huy động đã giảm sút với mức độ còn nghiêm trọng hơn mức giảm sút của tổng sản lượng lương thực: Từ trên 2 triệu tấn  năm 1976 xuống 1,6 triệu tấn năm 1978 và năm 1979 chỉ còn 1,4 triệu tấn. Đó chính là lúc mà Tp Hồ Chí Minh phải ăn bo bo thay cho gạo, là điều chưa từng có trong lịch sử thành phố 300 năm trước đó…

Rất tiếc là những ý tưởng kể trên của Lê Duẩn đã không được thực hiện. Đến nay chúng ta vẫn khó hiểu được những lý do nào đã khiến cho chỉ ngay sau đó ít lâu, trước hết là ngay tại Hội nghị Trung ương lần thứ 24, đã  có những nhận định và kết luận khác đi, thậm chí trái ngược với những gợi ý trong bài phát biểu khai mạc của Lê Duẩn.

Thí dụ:

Về tình hình quốc tế ,  Hội nghị TW lần thứ 24 đã nhận định:

“Sự suy yếu toàn diện và địa vị quốc tế giảm sút của chủ nghĩa đế quốc Mỹ là một xu thế không thể đảo ngược được… Hệ thống tư bản chủ nghĩa đang lâm vào một cuộc khủng hoảng toàn diện mới” (5).

Chính sách đối ngoại lúc này được xác định là:

“Tư tưởng cơ bản phải thấu suốt trong lĩnh vực đối ngoại là: chĩa mũi nhọn đấu tranh vào chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin và sự thống nhất của Đảng ta” (6).

Trong việc đánh giá thực trạng kinh tế miền Nam, văn bản của Nghị quyết 24 đã nhận định rằng:

“Miền Nam là cái túi tập trung bọn địa chủ, tư sản mại bản, bọn tay sai của đế quốc, bọn chống đối cách mạng ngoan cố nhất …và tầng lớp tư sản quan liêu quân phiệt khá đông đảo nhờ bóc lột nhân dân, lũng đoạn kinh tế, sống giầu có xa hoa trên xương máu của đồng bào ta… Chúng căm thù chế độ mới, ngoan cố không chịu thuần phục chính quyền, một số đang điên cuồng chống lại cách mạng… Chủ nghĩa thực dân mới đã tạo ra một xã hội ăn bám và thối nát…”.

Về con đường phát triển của kinh tế miền Nam, Nghị quyết 24 đã chủ trương: “Phải xoá bỏ tư sản mại bản bằng cách quốc hữu hoá cơ sở kinh tế của họ, biến thành sở hữu toàn dân do nhà nước quản lý.”

“Đối với kinh tế tư sản dân tộc, thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa bằng hình thức công tư hợp doanh, bắt đầu từ những cơ sở sản xuất kinh doanh quan trọng”.

 “Trước mắt cần xây dựng một số hợp tác xã thí điểm để rút kinh nghiệm. Ở những nơi chưa đủ điều kiện xây dựng hợp tác xã thì ra sức phát triển các tổ đổi công vần công”.

“Đối với thương nghiệp nhỏ, cần tích cực cải tạo xã hội chủ nghĩa bằng cách tổ chức đăng ký kinh doanh, có chính sách thuế và chế độ kiểm kê, kiểm soát, chuyển phần lớn tiểu thương sang sản xuất, lựa chọn để sử dụng một số người làm kinh tiêu” (7).

Dòng tư duy đó tiếp tục đi từ  Hội nghị Trung ương lần thứ 24 tới Đại hội Đảng lần thứ IV, với những chủ trương còn toàn diện và triệt để hơn:

“Việc hợp nhất các tỉnh nhỏ hiện nay thành những tỉnh mới là nhằm xây dựng các tỉnh thành những đơn vị kinh tế, kế hoạch và đơn vị hành chính có khả năng giải quyết đến mức cao nhất những yêu cầu về đẩy mạnh sản xuất, tổ chức đời sống vật chất, văn hoá của nhân dân, về củng cố quốc phòng, bảo vệ trị an và có khả năng đóng góp tốt nhất vào sự nghiệp chung của cả nước.

“Tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với tư bản tư doanh, đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, tiểu thương nghiệp và thương nghiệp nhỏ… sử dụng và hạn chế tư bản tư doanh, hợp tác hoá nông nghiệp đi đôi với xây dựng huyện, đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa; cải tạo thủ công nghiệp và tiểu công nghiệp bằng con đường hợp tác hoá là chủ yếu, cải tạo thương nghiệp nhỏ chủ yếu bằng cách chuyển dần tiểu thương sang sản xuất” (8).

“Xây dựng nông trường quốc doanh; gắn liền xây dựng hợp tác xã với xây dựng huyện thành đơn vị kinh tế nông – công nghiệp” (9).

Từ đó Việt Nam sẽ:

“Vươn lên những đỉnh cao của thời đại, biến đất nước nghèo nàn, lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá nặng nề thành một nước văn minh, giầu mạnh, thành trì bất khả xâm phạm của độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội ở Đông Dương và Đông Nam Á” (10).

*

Đối với sử học, người nghiên cứu cần có thể khác với người làm công tác tuyên truyền ở chỗ: Mỗi khi có dịp kỷ niệm một nhân vật lịch sử nào đó, không nhất thiết chỉ lựa chọn những gì là hay là tốt để nói. Tất nhiên văn hóa nghiên cứu không bao giờ cho phép những trò phê phán phi lịch sử. Nhưng sẽ là và chỉ là có ích nếu nói lên được một cách khách quan và công bằng những gì đã đạt được và cả những gì còn hạn chế ở mỗi nhân vật lịch sử, phân tích những nguyên nhân và hoàn cảnh của những suy nghĩ và quyết định của nhân vật đó, cả những cái đúng và những cái chưa đúng. Đó là vẻ đẹp của lịch sử và của các nhân vật lịch sử.

Theo Văn hóa nghiên cứu đó, đối với sự nghiệp của Lê Duẩn, con người có tầm ảnh hưởng lớn nhất nhì trong thế kỷ XX của Việt Nam và của cả một số sự kiện quốc tế (có lẽ chỉ sau Hồ Chí Minh thôi), thì nhiều câu hỏi vẫn còn là thách đố đối với giới nghiê cứu. Thí dụ như:

– Một người có vị trí hàng đầu trong Đảng và có uy tín cao nhất nước vào lúc đó như Lê Duẩn, nếu quả đã có sẵn những tư duy kinh tế sáng suốt và đúng đắn như trong bài phát biểu kể trên, thì tại sao vẫn không vượt qua được những rào cản của cả một bề dày tư duy cũ kỹ, bảo thủ, trì trệ, mà chính ông cũng đã coi là “ nguy hiểm lắm”, và thực tế là đã dẫn tới những khó khăn và tổn thất không nhỏ của đất nước trong hàng thập kỷ sau đó?

– Từ bài phát biểu khai mạc tại Hội nghị Trung ương lần thứ 24 cho tới bản thân Hội nghị Trung ương 24 và những kết luận chính thức của Hội nghị đó, đã có những diễn biến hay chuyển biến lịch sử  như thế nào? Trong đó bản thân Lê Duẩn có những thay đổi gì trong suy nghĩ không? Nếu có thì thay đổi vì sao và như thế nào?

Tại sao ở ông, có những suy nghĩ rất cấp tiến, đồng thời không phải không có những quyết định mà kết quả là ngược lại? Có thể giả thiết như thế này không: Vào cuối thập kỷ 70 và đầu thập kỷ 80, những bức xúc của ông về sự ách tắc của mô hình kinh tế cũ cùng những ý tưởng của ông về cái mới có lẽ cũng còn ở giai đoạn tìm tòi, với những ý nghĩ đột phá và đột xuất, như những phản ứng tức thời trước một thực tế quá phức tạp, chứ chưa thành một hệ thống tư duy có tính chất cương lĩnh? Nếu ở ông đã có được điều đó, thì với uy tín rất lớn và ở cương vị tối cao của mình, chắc tình hình đã diễn ra khác đi nhiều trong mười năm sau giải phóng. Có một lần, Giáo sư Trần Phương đã ưu ái dành cho tôi trọn một ngày để trao đổi về Lê Duẩn, thì chính Giáo sư cũng đã thừa nhận rằng vào thời kỳ đó, Lê Duẩn chưa có đủ thời gian để hoàn thiện những suy nghĩ về con đường kinh tế của Việt Nam…

– Trong những chủ trương và quyết sách như thống nhất về mô hình kinh tế trên cả nước, về việc tiến nhanh, tiến mạnh lên sản xuất lớn XHCN,  về việc bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, về việc đưa nhanh các HTX lên cấp cao, về việc cải tạo công thương nghiệp miền Nam một cách ồ ạt và rất phi kinh tế, về tư tưởng làm chủ tập thể , về việc sắp xếp lại giang sơn, về việc sáp nhập hơn 60 tỉnh của cả nước thành 29 tỉnh và thành phố, về việc xây dựng cấp huyện thành những pháo đài kinh tế, thì Lê Duẩn đã có một vai trò như thế nào?

– Trong một bài viết gần đây trên Thời báo Kinh tế (ngày 6-4-2007) giáo sư Trần Phương, một trong những trợ lý kinh tế thân cận nhất của Lê Duẩn, có kể lại rằng: một lần, tại nhà nghỉ Đồ Sơn, có mặt cả Thủ tướng Phạm Văn Đồng, vì quá bức xúc trước cảnh kinh tế sa sút và đời sống khó khăn, Lê Duẩn đã nói bằng một giọng gay gắt: “Chúng ta cầm quyền mà không lo nổi rau muống và nước lã cho dân thì nên từ chức đi”. Điều đó quả đã thể hiện rõ cả quyền uy, cả tính cách trung thực và tinh thần trách nhiệm của ông, mà giáo sư Trần Phương gọi là “một trái tim nhân hậu”. Nhưng chưa rõ ông quan niệm cái phạm trù “chúng ta cầm quyền” là gồm những ai? Sau này, khi nghiên cứu kỹ về lịch sử cơ chế khoán Hải Phòng, tôi được biết khu nhà nghỉ của Trung ương ở Đồ Sơn là một trong những nơi đã hình thành và phát triển  những tư tưởng lớn như làm chủ tập thể, sản xuất lớn, HTX cấp cao…, rất gần đó có HTX Đoàn Xá (mà theo đường chim bay chỉ cách nhà nghỉ Đồ Sơn có 12 km thôi, từ trên nhà nghỉ có thể nhìn thấy rõ lúc trời quang), sau khi đưa HTX lên cấp cao năm 1977, đã có hơn 50 hộ nông dân xã viên không còn gì để ăn nữa, phải bỏ ra thành phố đi ăn mày… Vậy những gì đã tạo ra sự ngăn cách giữa “trái tim nhân hậu” nơi Lê Duẩn với những nghịch cảnh mà Đoàn Xá là một trong vô vàn?

– Rồi đến khi Đảng ủy Đoàn Xá phải “ nhắm mắt làm ngơ” cho khoán chui để dân khỏi đói, và do đó mà Đoàn Xá trở thành cái nôi nổi tiếng của khoán Hải Phòng, thì khi biết chuyện, Lê Duẩn đã tuyên bố ngay với lãnh đạo thành phố: “Tôi đồng ý, cứ cho làm ngay đi, không phải hỏi ai nữa cả!”. Lời nói đó quả là một cú hích góp vào những khởi sắc của phong trào khoán, giúp nó lan tỏa trên cả nước sau đó. Như vậy là Lê Duẩn đã góp phần cứu nông nghiệp và nông dân cả nước khỏi cảnh bần hàn, sa sút. Sự kiện đó chắc chắn đã khẳng định rõ thêm “trái tim nhân hậu” và tư duy độc lập của ông. Nhưng mặt khác, phải chăng nó cũng phản ảnh cái dự cảm của ông về khả năng “chưa nhất trí lắm đâu” trước một vấn đề hệ trọng như vấn đề khoán? Và phải chăng cũng vì thế mà trong trường hợp này, rút kinh nghiệm từ khoán Vĩnh Phúc,  ông đã phải “ đi trước một bước” bày tỏ sự đồng tình triệt để trước khi có thể có một sự cản phá?

Đặng Phong

   Chú thích:

  1. Đồng chí Lê Duẩn, Bí Thư thứ nhất phát biểu tại Hội nghị Trung ương lần thứ 24 Ban chấp hành Trung ương, ngày 13-8-1975. Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng. VK. 36. 42. tr.1.
  2. Như trên, tr.16.
  3. Như trên, tr. 16-17.
  4. Như trên, tr. 8-9.
  5. Văn kiện Đảng toàn tập, tập 36, đd, tr.385.
  6. Như trên, tr.387.
  7. Văn kiện đảng Toàn tập, tập 36, 1975, tr.332, 412 -415.
  8. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành TW đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV. NXB Sự thật, HN 1977, tr. 108-109.
  9. Diễn văn khai mạc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV. Văn kiện đảng toàn tập. Tập 37, tr. 570.
  10. Diễn văn của đồng chí Lê Duẩn trong buổi lễ mừng chiến thắng. Văn kiện đảng Toàn tập, tập 36, 1975, tr 212.