Họ Vũ và di tích thành Bầu trên đất Tuyên Quang

Theo các tài liệu Dư địa chí của Nguyễn Trãi, Việt sử thông giám cương mục của Quốc sử quán triều Nguyễn… thì tên Tuyên Quang lần đầu được xuất hiện vào thời Trần và trở thành đơn vị hành chính cấp Thừa tuyên trực thuộc triều đình Trung ương vào năm Quang Thuận thứ 10 (1469) có 1 phủ (Yên Bình), 1 huyện (Phúc Yên) và 5 châu (Thu Vật, Lục Yên, Đại Man, Bình Nguyên và Bảo Lạc). Năm Hồng Thuận thứ 4 (1512) đổi là trấn Minh Quang. Đời Nguyên Hòa (từ 1533), Gia quốc công Vũ Văn Mật có công phò nhà Lê đánh nhà Mạc được giao giữ đất Đại Đồng, gọi là dinh Yên Tây. Năm 1831, Minh Mệnh đổi là tỉnh Tuyên Quang.

Toàn cảnh đồi Bông Hạ

Toàn cảnh đồi Bông Hạ

Hai anh em Vũ Văn Uyên và Vũ Văn Mật là người làng Ba Đông, huyện Gia Phúc (nay là Gia Lộc, tỉnh Hải Dương) bắt đầu dấy quân ở suối Khổng, thuộc huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc, sau đem quân lên đóng ở động Ngọc Uyên, châu Thủy Vĩ, thu thập binh sĩ kéo xuống Lục Yên và Thu Vật, Tuyên Quang. Khi tới Khau Bầu, xã Đại Đồng, trấn Tuyên Quang anh em họ Vũ dấy binh, dựng đồn và xây thành ở đó. Lúc bấy giờ tù trưởng Đại Đồng bị nhân dân oán ghét. Vũ Văn Uyên chiêu mộ lực lượng, giết tù trưởng, chiếm đất, xưng làm Đô tướng. Vua Lê Chiêu Tông (1516 – 1522) phong cho làm Đô thống xứ trấn Tuyên Quang, tước Khánh Dương Hầu (sách Lịch triều hiến chương loại chí chép là Khánh Bá Hầu). Văn Uyên đóng quân ở thành Nghị Lang, xã Lương Sơn, huyện Lục Yên, binh sĩ có tới mấy vạn. Năm 1527 Mạc Đăng Dung cướp ngôi vua lập ra triều Mạc (Bắc Triều). Vũ Văn Uyên giữ vững cả miền Tuyên Quang, Hưng Hóa, cát cứ một phương, hướng về nhà Lê, nắm quyền từ Thanh Hóa trở vào, không chịu theo nhà Mạc.

Khi nghe tin Nguyễn Kim đưa Lê Trung Tông sang Sầm Châu phục dựng lại chính quyền, thì Văn Uyên sai người dâng biểu xin theo. Khi Trung Tông sai Trịnh Duy Liễn sang nhà Minh tố cáo việc họ Mạc cướp ngôi, vua Minh sai tuần phủ Vân Nam điều tra vào năm 1533. Văn Uyên đã viết thư tố cáo họ Mạc rồi cầm quân đi tiên phong cùng quân Minh đánh Mạc. Nhưng quân Minh âm mưu lợi dụng cơ hội tiến quân cướp nước ta. Biết rõ điều này, Văn Uyên kịp thời tách khỏi quân Minh và phái người vào Sầm Châu dẫn quân nhà Lê theo đường thượng đạo hành quân đánh Mạc. Hai bên giao chiến bất phân thắng bại, Văn Uyên rút quân về Đại Đồng. Mạc Phúc Hải đem đại quân ngược sông Hồng tiến đánh Văn Uyên. Lần thứ nhất Văn Uyên tránh, lần thứ hai đem quân phục kích đánh tan quân Mạc. Từ đó triều Mạc phải chịu cho họ Vũ cát cứ.

Lúc bắt đầu dấy quân, anh em Văn Uyên, Văn Mật phát triển lực lượng ở đất Khau Bầu, nên được gọi là chúa Bầu, những thành do Văn Uyên, Văn Mật đắp đều dùng chữ “Bầu” để gọi tên. Lê Trung Tông lên ngôi (1549 – 1556), Văn Uyên vâng chiếu đem quân sang phía Tây lấy các phủ Tam Đới, Bắc Hà rồi sai người đi phủ dụ dân Thái Nguyên, Lạng Sơn. Lê Anh Tông lên ngôi, Thái sư Lương quốc công Trịnh Kiểm cất quân đánh dẹp miền Đông, từ Tây Quan ra đến Hưng Hóa, lên Tuyên Quang. Văn Uyên ra đón, binh lương đầy đủ, dồi dào. Trịnh Kiểm rất mừng cùng bàn tiến quân vượt sông, cho Văn Uyên trấn giữ Đại Đồng. Vì có công giúp vua Lê, Văn Uyên được ban quyền thế tập trấn giữ Tuyên Quang.

Hố thám sát

Hố thám sát

Vũ Văn Uyên chết, em là Vũ Văn Mật nối quyền, xưng là Gia quốc công. Mật lấy Đại Đồng làm trung tâm, xây thành đắp lũy, ra sức chống cự với nhà Mạc. Ông chiêu tập người lưu vong về xây dựng Đại Đồng thành nơi trù mật, buôn bán thịnh vượng. Sau đó Văn Mật đem quân đánh chiếm 3 phủ Lâm Thao, Đoan Hùng và Đà Dương, thuộc trấn Sơn Tây; các huyện Phổ Yên, Đồng Hỷ thuộc trấn Hùng Cường. Sau bị nhà Mạc đánh phá, bèn bỏ thượng lộ Thái Nguyên và Sơn Tây, rút về giữ Tuyên Quang, sau này mất ở Nghệ An. Vũ Văn Mật chết, con là Nhân quốc công Vũ Công Kỷ kế tiếp trấn thủ Đại Đồng. Năm 1573, Trịnh Tùng lấy Thái phó Nhân quốc công Vũ Công Kỷ làm hữu tướng. Cùng năm đó, Công Kỷ được sai đem quân bản bộ về giữ Đại Đồng để yên dân địa phương. Công Kỷ đã từng nhiều lầm cầm quân đánh Mạc và lập công to. Năm 1578, Mạc Ngọc Liễm xâm lấn các vùng Tuyên Quang, Hưng Hóa, Công Kỷ tung quân đánh, quân Mạc thua to phải rút về.

Khi Vũ Công Kỷ mất, con là Vũ Đức Cung, tước Hòa thắng hầu tiếp tục trấn giữ Đại Đồng. Năm 1593, đem 2.000 quân tới kinh đô quy phục, mang vàng bạc châu báu mỗi loại 10 mâm, người bằng vàng 1 người, bạc trắng 2 vò, lư hương bạc 1 chiếc, hạc 2 con, ngựa tốt 30 con đến phủ Tiết chế bái yết, được Trịnh Tùng thăng làm Bắc quân đô đốc, Thái bảo Hòa quận công (Phương Đình địa chí ghi là Hòa quốc công), được mang quân hiệu An Bắc doanh. Cùng năm đó, Vũ Đức Cung lại xin về trấn Đại Đồng. Vì dòng họ Vũ có nhiều công lao, nên con của Vũ Đức Cung là Vũ Công Ứng được tập phong là Thụy quận công (Đại Việt sử ký toàn thư chép là Thuần quận công). Đầu đời Cảnh Trị, Vũ Công Ứng nhân cùng với thủ hạ là Ma Phúc Trường có sự bất bình với nhau. Công Ứng trong lòng nghi ngờ lo sợ, vào kinh sư nộp tờ cam kết xin quy thuận. Khi đến tuần ti Đông Lan đêm đến bị kẻ gian giết. Vũ Công Tuấn được lập nối nghiệp cha và được ban chức Đô đốc thiên sự, tước Khoan quận công để ở kinh sư, cấp cho dân lộc để phụng thờ tổ tiên, các con trai – con gái đều được triều đình vỗ về an ủi. Triều đình lại nhận thấy Ma Phúc Trường không trung thành với người mà mình phụng thờ nên giam vào ngục. Năm 1672, nhân lúc triều đình sơ hở, Công Tuấn trốn về Tuyên Quang cướp bóc nhân dân. Tuấn câu kết với dòng dõi họ Mạc là Kinh Chửu, Kinh Thọ tự xưng là Tiểu giao Cương Vương và chạy sang nhờ nhà Thanh giúp sức. Thổ ty phủ Khai Hóa (Vân Nam) nhân dịp này chiếm đất, cướp dân của nước ta. Suốt thời Lê, ta không đòi được. Năm 1699 (sách Việt sử thông giám cương mục chính biên chép là 1689), triều đình bắt được Vũ Công Tuấn. Từ đó, triều đình đặt chức Lưu thư ở Tuyên Quang. Dòng dõi “chúa Bầu” cũng kết thúc vai trò lịch sử của mình.

Thành Bầu là di tích thành lũy quân sự thuộc loại hình lịch sử – văn hóa. Thành do anh em Vũ Văn Uyên và Vũ Văn Mật chỉ huy xây dựng để phù nhà Lê, chống nhà Mạc vào khoảng những năm 30 đến 60 của thế kỷ XVI. Dọc tuyến sông Lô, từ thị xã Tuyên Quang xuống địa phận xã An Khang, cách bến đò Bình Ca khoảng 400m theo hướng Tây có một khu đất rộng 40ha tại xóm Tân Thành, là nơi thành Bầu được xây dựng. Dựa vào vị thế thuận lợi của sông núi, với ý định lập đại bản doanh ở nơi đây, họ Vũ cho xây dựng thành với quy mô khá bề thế trong diện tích 9 ha trên hai quả đồi Bông Thượng và Bông Hạ. Hiện  nay trong khu vực xã An Khang còn nhiều địa danh liên quan đến hoạt động của anh em họ Vũ như xóm Thúc Thủy là nơi luyện quân thủy, xóm Tràng Thi là nơi dành cho việc thi cử tuyển chọn nhân tài, đồi Phủ Chúa Bà (hay còn gọi là đồi Bông Hạ) là nơi vợ Chúa Bầu ở, Bãi Phủ (hay còn gọi là trại Ruộc) là nơi thuyền bè neo đậu buôn bán.

Hiện nay, xung quanh xóm Tân Thành đều có vết tích thành Bầu. Tại đây, có thể dễ dàng nhận thấy từng đoạn thành vẫn còn ăn sâu trong vách sườn đồi. Không còn đoạn thành nào nguyên vẹn, do vậy không biết được chiều cao của tường thành. Phần chân tường được xây dựng khác nhau tùy theo địa hình của nơi xây thành. Ở khu vực khá bằng phẳng (vườn nhà ông Trần Văn Hòa) phần chân tường là hai hàng gạch chạy song song cách nhau 6m, mỗi hàng gạch có chiều dày 0,4m. Có thể ở đoạn thành này, gạch được xây ốp theo hai mặt tường thành, đất được đổ bên trong. Việc sử dụng gạch để ốp tường này cho được độ thẳng đứng bên ngoài, gây trở ngại lớn cho kẻ địch muốn vượt tường tấn công. Gạch xây thành là loại gạch vồ có hình khối chữ nhật, kích thước 40cm x 20cm. Gạch được làm bằng khuôn sau đó nung như các loại gạch thủ công hiện vẫn đang làm. Chất liệu gạch là loại đất đồi có sẵn tại địa phương. Hiện nay còn khoảng hơn 200m chân tường thành nằm rải rác quanh khu vực xóm Tân Thành. Kết cấu mặt bằng của thành không theo một hình dáng nhất định, chủ yếu dựa vào vị thế tự nhiên. Tại đây, thành được xây men theo chân đồi. Đặc biệt ở hướng đông của thành, nơi tiếp giáp với bến đò Bình Ca, có dấu tích của hai vòng thành, vòng trong cách vòng ngoài khoảng 50m. Có thể đây là hướng xung yếu của thành. Ở khoảng giữa hai vòng thành nói trên còn có dấu tích của một ngôi miếu nhỏ.

Đồi Bông Thượng nằm ở trung tâm xóm Tân Thành, giữa hai đồi Bông Hạ và đồi Khe Xanh. Đây là một quả đồi lớn có dạng hình mâm xôi, nằm kề bên là những quả đồi nhỏ. Đồi cao 55,5m so với mặt đất xung quanh. Phần đỉnh đồi là một bãi khá rộng, khoảng gần 1000m2, trên đồi có rất nhiều gạch. Tại sườn đồi phía đông bắc của đồi Bông Thượng có rất nhiều viên đạn bằng đá. Đạn đá hình cầu với nhiều kích cỡ khác nhau, viên lớn có đường kính 8cm, viên nhỏ có đường kính 2cm. Đạn được làm bằng đá mịn màu trắng. Tại khu vực này đã tìm thấy hai khẩu súng thần công, hiện đang được bảo quản tại Bảo tàng Tuyên Quang, súng có chiều dài 1,4m, đường kính đầu súng là 10cm, đường kính đuôi súng là 20cm.

Đồi Bông Hạ, hay còn gọi là đồi Phủ Bà Chúa nằm liền kề với đồi Bông Thượng và tiếp giáp với sông Lô. Đây là quả đồi lớn có dạng mâm xôi, đồi cao khoảng 45m. Trên đỉnh đồi phủ đầy gạch, ngói vỡ, hiện bị cỏ cây rậm rạp phủ kín. Tại đây có những tường móng nhà đã bị đổ được xây bằng loại gạch xây thành, nhưng với kích thước nhỏ hơn. Tại khu vực này nhiều mảnh ngói mũi hài và những mảnh bát, đĩa vỡ đều là những mảnh gốm sứ thời Lê. Căn cứ vào những dấu tích còn lại cho thấy móng nhà có hình chữ nhật với diện tích ước chừng trên dưới 100m2. Tại các nhà dân sinh sống trong khu vực đồi Bông Hạ hiện còn lưu giữ, sử dụng rất nhiều lon sành thời Lê, đây là những vật dụng đã được sử dụng trong sinh hoạt tại thành Bầu. Tại sườn phía bắc của đồi Bông Hạ còn tìm thấy nhiều viên đá lát đường có kích thước 0,8m x 0,5m x 0,3m. Đây là loại đá hoa cương màu xám trắng, tinh thể hạt thô, được đẽo khá vuông vắn. Có hai dải đường đá nối liền đồi Bông Thượng và Bông Hạ, được lát theo dạng bậc thang từ chân đồi lên đến đỉnh đồi Bông Thượng. Hiện nay nhiều tảng đá vẫn còn nằm sâu dưới đất.

Trong phạm vi của vùng đất cai quản, dòng họ Vũ đã đóng tại 11 doanh, tại mỗi doanh đều xây thành, đắp lũy hiểm trở và đều mang tên thành Bầu. Hệ thống thành Bầu được xây dựng chủ yếu để chống lại nhà Mạc chứ không phải để chống ngoại xâm. Thành Bầu ở Bình Ca được xây dựng trên khu đồi nằm lọt trong vòng cung hình chữ U được tạo bởi dòng chảy của sông Lô. Anh em Vũ Văn Uyên, Vũ Văn Mật đã lợi dụng khe đất trúng để đào một đoạn sông nối liền hai đầu chữ U với ý định lấy sông làm hào bao bọc, che chở thành. Hiện nay giữa những quả đồi giáp ranh xóm Phúc Lộc và xóm Tân Thành có dải đất trũng với chiều rộng trên 20m, rất khác lạ so với địa hình tự nhiên trong khu vực, điều đó có thể khẳng định đó là dấu vết của con sông đào. Con sông này được đào dựa theo địa hình tự nhiên của các khe giữa hai quả đồi. Cách đồi Bông Thượng khoảng 500m, có khu đất khá rộng, bằng phẳng, hiện có nhiều cây cổ thụ lớn. Xa kia, tại đây có hai con rùa bằng đá đội bia chầu ở hai bên lối đi. Hiện nay chỉ còn dấu tích một con rùa đã bị gãy cổ. Theo GS Sử học Trần Quốc Vượng, dựa vào địa thế khu đất, có thể đây là khu đình miếu để tế lễ xuất quân hay báo tiệp của hai vị chúa Bầu. Thành Bầu có vị trí địa lý quân sự rất đắc lợi, hiểm yếu, tạo thế vững chắc cho thành. Chính vì vậy, trong suốt mấy chục năm, nhà Mạc đắp thành ở Tuyên Quang, theo dòng Lô đánh lên thành Bầu mà không sao hạ nổi.

Công lao của nhà họ Vũ và di tích thành Bầu có ý nghĩa lớn đối với công tác nghiên cứu lịch sử dân tộc. Với phong cảnh thiên nhiên sơn thủy hữu tình, di tích thành Bầu có thể kết hợp với di tích phân bố gần kề như di tích chiến thắng Bình Ca, di tích chùa Hương Nghiêm thành tua du lịch thuận lợi, hấp dẫn du khách. Di tích thành Bầu là cứ liệu tin cậy để nghiên cứu về lịch sử quân sự, nghệ thuật quân sự, về xây dựng kiến trúc thành lũy. Đồng thời là nguồn tài liệu giúp các nhà nghiên cứu tìm hiểu về một giai đoạn lịch sử địa phương.

Quang Huy