Những khó khăn khi đọc các văn bản chữ Nho xưa

Trong khi phiên dịch những văn bản chữ Nho xưa, nhiều dịch giả đã gặp khó khăn vì chữ Nho xưa viết không có dấu chấm câu, không viết hoa danh từ riêng, câu văn lại quá cô đọng, khiến người đọc dễ hiểu sai nghĩa. Không chỉ đối với người phiên dịch thời nay, mà ngay từ xưa, khi chữ Nho còn được sử dụng chính thức, thì ngay người Trung Quốc cũng còn bị nhầm lẫn khi thảo và đọc văn bản.

Xin dẫn hai trường hợp còn để lại trong các văn bản chính thức của triều đình Trung Hoa, mà sự sai sót nghiêm trọng có thể hệ lụy đến việc bang giao giữa các nước. Thanh Thực lục ghi lại 2 trường hợp vua Càn Long nhận được lời tấu sai về sự việc có liên quan đến Việt Nam; một lần do Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị gây nên, lần sau do Tổng đốc Phúc Khang An.

Trường hợp thứ nhất

Năm Càn Long thứ 53 [1788], gia đình vua Lê Chiêu Thống  trốn tránh nhà Tây Sơn, sang Long Châu, Trung Quốc. Viên Tri đạo Tả Giang là Lục Hữu Nhân bèn viết tờ trình lên Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị tại tỉnh Quảng Ðông, và Tuần phủ Tôn Vĩnh Thanh tại tỉnh Quảng Tây; đến lượt hai viên đại quan họ Tôn lập tức gửi tờ tâu sự việc lên vua Càn Long. Tờ tâu của Tôn Vĩnh Thanh không có vấn đề gì, nhưng tờ tâu của Tôn Sĩ Nghị hiểu sai rằng có mặt vua Lê Chiêu Thống [Lê Duy Kỳ] trong đám tỵ nạn:

Ngày Canh Tuất tháng 6 năm Càn Long thứ 53 [22/7/1788]

Dụ các Quân cơ đại thần. Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị tâu những lời như sau:

-“Nhận được tờ bẩm của đạo Tả Giang, cả gia đình Tự tôn (1) nước An Nam đã đến nương nhờ nội địa, hiện đã truyền hịch cần ước lượng liệu biện; rồi trong ngày rong ruỗi đến Long Châu (2), quan sát tình hình, để tâu lên đầy đủ.”

Việc này, căn cứ vào lời tâu của Tôn Vĩnh Thanh trước đây, Trẫm sợ rằng viên Tuần phủ không có đủ chủ kiến để lo liệu, nên đã lập tức ra chỉ dụ mệnh Tôn Sĩ Nghị cấp tốc đến nơi tra biện. Nay viên Tổng đốc không đợi chỉ dụ, lập tức khởi trình; như vậy là biết tính toán sự khinh trọng được mất, thật không thẹn với nhiệm vụ của Ðại thần được phong đất, thực đáng khen. Trước kia trong tấu triệp của Tôn Vĩnh Thanh, không đề cập đến Tự tôn Lê Duy Kỳ, cũng không cho biết hơn 60 người đến là những ai; Từng dụ rằng phải điều tra minh bạch, rồi tâu lên lập tức. Nay theo lời tâu của Tôn Sĩ Nghị, mới biết rằng Lê Duy Kỳ cũng cùng đến. Nhưng Lê Duy Kỳ đích thân đem cả gia quyến đến nội địa, sao trong tờ trình  chỉ có viên Di quan (3) Nguyễn Huy Túc đứng tên….(Cao Tông Thực Lục, quyển 1307, trang 595- 596)

Trong đạo dụ kế tiếp vua Càn Long nhận  ra là Tôn Sĩ Nghị đã tâu sai, thực sự vua Lê Chiêu Thống [Lê Duy Kỳ] không cùng với gia đình đến tỵ nạn. Tuy nhiên Tôn Sĩ Nghị đã tình nguyện đến tận nơi để giải quyết, việc này trúng ý với Càn Long, nên không bị trách. Hơn nữa Tôn Sĩ Nghị là Tiến sĩ xuất thân, đã từng lãnh nhiệm vụ duyệt sách đưa vào TỨ KHỐ TOÀN THƯ; một người từng đảm trách nhiệm vụ quan trọng như vậy thì không thể là người dốt , nên được lờ đi và cho đó là một sự việc xẩy ra ngoài ý muốn:

Ngày Ðinh Tỵ tháng 6 năm Càn Long thứ 53 [29/7/1788]

Dụ các Quân cơ đại thần. Trước đây nhân Tôn Sĩ Nghị tâu rằng Lê Duy Kỳ đích thân mang bà con đến xin tá túc, trong đơn ghi tên Lê Duy Kỳ đứng đầu. Lê Duy Kỳ là cháu nối dõi của Vương nước An Nam, tuy chưa được thụ phong, nhưng là người đáng được nối dõi nên cũng không khác gì Quốc vương. Y lại mang gia quyến đến xin tá túc, tình trạng giống như cả nước này đã bị họ Nguyễn soán đoạt, sợ phải tìm biện pháp trù biện.

Nay theo sự điều tra rõ của Tôn Sĩ Nghị, Tự tôn nước này chưa cùng với gia quyến đến; người trong nước này theo giặc cũng chỉ có những xứ như Mục Mã, Lạng Sơn; còn phía tây thành nhà Lê cùng các vùng phía bắc đều không chịu hàng giặc…..(Cao Tông Thực Lục, quyển 1307, trang 607-609) 

Trường hợp thứ hai

Trường hợp sai lầm của Tổng đốc Lưỡng Quảng Phúc Khang An, người nhậm chức sau Tôn Sĩ Nghị, có thể tóm tắt như sau: Theo lệ nhà Thanh cho phép kiểm duyệt thư tín của Sứ thần ngoại quốc. Bấy giờ nhà Thanh đã hòa hoãn với nhà Tây Sơn, Sứ thần Nguyễn Quang Hiển [cháu vua Quang Trung] đến Trung Quốc. Phúc Khang An bèn kiểm duyệt thư của vua Quang Trung gửi  Nguyễn Quang Hiển ; viên Tổng đốc này hiểu lầm nội dung thư và tâu sai rằng vua Quang Trung muốn may áo mãng bào theo kiểu nhà Thanh. Ðiều này rất quan trọng, vì nếu Càn Long không kịp thời thấy được sự sai lầm, thì đã sai người may sẵn áo mãng bào để tặng vua Quang Trung trong buổi gặp mặt. Nếu trường hợp này xẩy ra, lẽ dĩ nhiên vua Quang Trung [giả] không bằng lòng mặc quốc phục nhà Thanh, việc này có thể gây khó khăn về việc bang giao giữa hai nước, mà lúc bấy giờ vua Càn Long đang muốn lấy lòng. Vua Càn Long thừa biết Phúc Khang An gốc Mãn Thanh, chữ nghĩa chẳng có bao nhiêu, lại đang cần dùng để đem vua Quang Trung [giả] đến dự lễ khánh thọ, nên chỉ trách móc sơ sài, và quay sang quở trách bọn thư lại dưới quyền y nặng nề:

Ngày 27 tháng 3 năm Càn Long thứ 55 [11/5/1790]

Dụ các Quân Cơ Đại thần: Theo lời tấu mới đây của Phúc Khang An thì Nguyễn Quang Bình gửi mẫu xin dệt áo bào, chỉ là kiểu áo cổ tròn của nhà Hán; bây giờ Trẫm mới biết rằng lời tấu trước kia là sai lầm(5). Lỗi do trong tấu triệp của Phúc Khang An có câu như “Viên Quốc vương hâm mộ lễ phục của Trung Hoa… Nguyễn Quang Hiển đã mua áo Mãng Bào từ Hán Khẩu tỉnh Hồ Bắc mang về v.v…” Duyệt tấu triệp, tìm hiểu ý qua lời văn, Trẫm nhất thời nghĩ rằng mua áo Mãng Bào [áo Bào Mãn Thanh] tại Hán Khẩu, không thể sửa thành áo cổ tròn được [áo Bào nhà Hán]; nên cho rằng viên Quốc vương hâm mộ phong tục đẹp đẽ của nước ta, sau khi đến Nhiệt Hà sẽ chiều theo ý số đông, đổi sang y phục Trung Quốc [nhà Thanh] để biểu lộ tấm lòng cung kính; bèn giáng chỉ hỏi han, mà không biết rằng lời bẩm xin của nước này không phải như vậy; nên họ có thể hiểu lầm rằng Trẫm muốn cưỡng bách [Nguyễn Quang Bình] cải hoán y phục, đó là điều sai lầm!

Nay duyệt tấu triệp của Phúc Khang An, có câu “Lúc này chưa tiện hỏi việc này” tức y đã biết sai lầm nhưng không dám nói trắng ra. Phúc Khang An chịu ơn sâu của Trẫm, giao trọng trách biên thùy, lo liệu việc An Nam. Y thấy Nguyễn Quang Bình xin vào triều cận, biên thùy yên tĩnh, thì trong lòng không khỏi cao hứng, lúc tấu thêm thắt vào, khiến sai bản ý. Như tấu triệp trước xưng “Hâm mộ Trung Hoa lễ phục, tại Hán Khẩu mua áo Mãng Bào”; thử nghĩ xem áo mũ nhà Hán, không đúng chế độ của bản triều, chỉ có thể gọi là áo cổ tròn, sao gọi là Mãng Bào? Lại càng không thể gọi là lễ phục của Trung Hoa! Đây chắc do những tên thư lại kém cõi dưới trướng, soạn bản thảo chắp nhặt câu văn; Phúc Khang An không rành văn nghĩa, lại không chịu tra cứu kỹ, cứ chép nguyên văn tâu lên, nên sai lầm như vậy! Nghĩ lại càng phiền muộn! Bọn thư lại kém cỏi đó, không thể dung thứ được! Nay truyền dụ cho Phúc Khang An đừng tiết lộ những lời trong chỉ dụ này và chỉ dụ trước, coi như không có là tốt. Nếu Nguyễn Quang Bình đã đến quan ải, trong lúc trò chuyện y có đề cập tới, thì hãy đem sự việc tâu trình thành thực, không được che đậy chút nào. (Cao Tông Thực Lục, quyển 1361, trang 93-94).

Việc chữ Nho xưa không viết hoa các danh từ riêng, mãi mãi còn gây hệ lụy. Trong một công trình phiên dịch công phu hàng mấy ngàn trang do Tiến Sĩ Geoff Wade phụ trách nhan đề THE MING SHI-LU AS A SOURCE FOR SOUTHEAST ASEAN HISTORY [ Minh Thực Lục, nguồn sử liệu cho các nước Ðông Nam Á] http://epress.nus.edu.sg/msl , thỉnh thoảng người đọc bắt gặp những sai lầm vì không nhận ra danh từ riêng. Cụ thể tại bản dịch bài sớ của viên Tham tri bộ Hộ tên Đường Trụ, khuyên vua Gia Tĩnh triều Minh đừng mang quân đánh nước ta dưới thời Mạc Đăng Dung; trong đó có câu dẫn chứng về việc quân lính của Mã Viện bị chết đến một nữa, nguyên văn và lời dịch như sau:

臣 考 馬 援 南 征 沐 歷 浪 泊 士 卒 死 者 幾 半

( thần khảo mã viện nam chinh mộc lịch lãng bạc sĩ tốt tử giả kỷ bán) [Minh Thực Lục, Thế Tông, quyển 195, trang 1b]. Ðược dịch như sau:

I have studied Ma Yuang’s southern expedition. It had to proceed through great waves and high seas and nearly one half of the troops died.

Giả sử người dịch được đọc Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim, qua đoạn:

“Mã Viện là một danh tướng nhà Đông Hán, lúc bấy giờ đã ngoài 70 tuổi, nhưng vẫn còn mạnh, đem quân đi men bờ để phá rừng đào núi làm đường sang đến Lãng Bạc (6), gặp quân Trưng Vương hai bên đánh nhau mấy trận”.

Thì sẽ không cho lãng bạc là biển cả sóng dữ [ great waves and high seas]  như trong bản dịch tiếng Anh, mà chỉ dịch giản dị  Lãng Bạc lake mà thôi!

   Hồ Bạch Thảo