Con đường xuất dương của đoàn học viên cách mạng đầu tiên sang Quảng Châu năm 1926

Tháng 8-1926 tại ngôi nhà ở đường Văn Minh thành phố Quảng Châu (Trung Quốc) đã khai giảng khoá huấn luyện cách mạng đầu tiên cho các chiến sĩ từ Việt Nam sang. Lớp học do Nguyễn Ái Quốc trực tiếp tổ chức và giảng dạy. Học viên lớp này khoảng 20 người, trong đó có Trần Phú, Nguyễn Công Thu, Nguyễn Danh Thọ, Nguyễn Ngọc Ba, Phan Trọng Quảng, Phan Trọng Bình, Nguyễn Văn Lợi, sau này được giao nhiệm vụ về ba miền Bắc, Trung, Nam để gieo mầm hạt giống cách mạng, gây dựng những cơ sở đầu tiên của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở trong nước năm 1926. Năm 1963, Bảo tàng Cách mạng Việt Nam đã tổ chức cuộc khảo sát thực địa để nghiên cứu tìm tư liệu và hiện vật về con đường xuất dương của đoàn trong nước đầu tiên đó. Đoàn khảo sát do ông Đào Duy Kỳ, Chủ tịch Hội đồng khoa học Bảo tàng Cách mạng Việt Nam làm Trưởng đoàn với sự tham gia của các ông Phan Trọng Bình, Phan Trọng Quảng, Nguyễn Ngọc Ba là 3 trong số 10 người cùng xuất dương với Trần Phú tháng 7-1926.

Ngày 28-3-1964 ông Đào Duy Kỳ đã báo cáo trước Hội đồng khoa học Bảo tàng Cách mạng Việt Nam về chuyến đi và kết quả cuộc khảo sát con đường xuất dương của đoàn trong nước đầu tiên sang Quảng Châu dự lớp huấn luyện chính trị năm 1926.

Nhân kỷ niệm 80 năm ngày khai giảng khoá huấn luyện cách mạng này, chúng tôi xin giới thiệu tóm tắt một số nội dung trong bản báo cáo về con đường xuất dương của những thanh niên yêu nước thời đó.

 

Năm 1925, sau khi thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tại Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc bàn với Tổng bộ xây dựng các đường liên lạc giữa Tổng bộ với trong nước để đưa đón cán bộ đi về, chuyển nhận tài liệu, sách báo. Đồng thời cử người về nước tìm chọn những thanh niên có chí khí đưa sang Quảng Châu để được trực tiếp huấn luyện chính trị và phương pháp hoạt động cách mạng rồi trở về gây dựng cơ sở trong nước.

Năm 1926, Nguyễn Lương Bằng được giao nhiệm vụ đảm nhận đường dây liên lạc bằng đường biển Hồng Kông – Hải Phòng. Lê Duy Điếm (Lê Lợi) được cử về Nghệ An liên lạc với nhóm Phục Việt của Trần Phú, Tôn Quang Phiệt; Lê Hữu Lập về Nam Định tìm gặp Đinh Chương Dương cùng nhóm học sinh trường Thành Chung quê Nam Định, Thái Bình, Thanh Hoá; Hồ Tùng Mậu đi Đông Bắc Thái Lan tìm gặp cụ Đặng Thúc Hứa và các Việt kiều yêu nước … để tìm chọn người đưa sang Quảng Châu dự lớp huấn luyện.

Từ mùa hè năm 1961 BTCMVN bắt đầu có ý định tổ chức một cuộc khảo sát để tìm lại con đường xuất dương của đoàn Trần Phú hồi tháng 7 năm 1926. Sau một thời gian chuẩn bị, Hội đồng khoa học BTCMVN đã tổ chức Đoàn khảo sát con đường xuất dương của nhóm thanh niên Việt Nam yêu nước trong đó có Trần Phú hồi tháng 7 năm 1926. Đoàn gồm có 2 thành viên của Hội đồng khoa học, 3 vị lão thành cách mạng đã cùng Trần Phú xuất dương, 1 cán bộ sưu tầm, 1 cán bộ nhiếp ảnh. Đoàn khảo sát rời Hà Nội lên đường ngày 26-11-1963, ghé qua Hải Phòng và thẳng đường bộ đi qua Hòn Gay, Cửa Ông, Tiên Yên đến Móng Cái.

Sau mấy buổi tiếp xúc với các đồng chí lãnh đạo Đảng và chính quyền ở Hải Ninh, Đoàn đã cùng cán bộ phụ trách các ngành ở địa phương tổ chức cuộc toạ đàm về con đường xuất dương của đoàn Trần Phú. Trong cuộc toạ đàm này, ba vị lão thành cách mạng đi trong đoàn là Phan Trọng Bình, Phan Trọng Quảng và Nguyễn Ngọc Ba đã lần lượt kể lại toàn bộ cuộc hành trình từ Nghệ An và Thanh Hoá ra đến Quảng Châu (Trung Quốc), những ngày dự lớp huấn luyện chính trị do Bác Hồ giảng dạy, nội dung các bài giảng của Bác, sinh hoạt của các học viên ở Quảng Châu …

Tiếp theo, ngày 30 và 31-11-1963 Đoàn khảo sát cùng một số cán bộ phụ trách Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Hải Ninh, Ty Văn hoá Hải Ninh đi lại quãng đường từ bến tàu Mũi Ngọc đến bến đò Nà Sáo Tụ bên bờ sông Bắc Luân nơi phân chia biên giới giữa hai nước Việt-Trung. Ngày 1 và 2-12-1963, Đoàn được Tỉnh ủy Hải Ninh giới thiệu sang Đông Hưng (Trung Quốc). Đồng chí Triệu Vinh, Bí thư Huyện uỷ kiêm Chủ tịch huyện Đông Hưng đã đón tiếp và hướng dẫn Đoàn đi tìm lại một số di tích lịch sử có liên quan đến cuộc hành trình của đoàn xuất dương năm 1926 như : Trại lính cũ ở Tiêu Lâu Lĩnh, khách sạn mà đoàn xuất dương đã ở để chờ đi Quảng Châu, bến thuyền đi Bắc Hải. Trại lính cũ và bến thuyền đã tìm thấy ngay, còn khách sạn thì tìm suốt hai buổi mà không thấy. Khách sạn này tên là Thuận Hưng Lâu chứ không phải là Hồng Sinh như có đồng chí đã nhớ lầm. Sau đó, Đoàn khảo sát đã tìm đến bến đò Nà Sáo Tụ bên phía Trung Quốc, thăm mảnh đất cũ của gia đình họ Đỗ nơi đặt trạm liên lạc đón đoàn xuất dương năm 1926. Các đồng chí Trung Quốc cho biết gia đình họ Đỗ là người Việt và đã trở về quê bên Móng Cái vào khoảng năm 1959-1960.

Ngày 3 và 4-12-1963, Đoàn khảo sát đến thăm gia đình họ Đỗ ở 3 nơi: nhà người con cả là Đỗ Đức Nghiệp, nhà người con thứ là Đỗ Đức Phương, và mảnh đất quê hương của ông Đỗ Phát Khang (tức ông Cộc) người trông nom trạm liên lạc ở bến đò Nà Sáo Tụ.

Trước khi kết thúc khảo sát về Hà Nội Đoàn đã giới thiệu những đóng góp cho cách mạng của gia đình họ Đỗ với Tỉnh uỷ Hải Ninh, báo cáo kết quả cuộc khảo sát với Tỉnh uỷ và toàn thể cán bộ các cơ quan trong tỉnh.

Ngày 6-12-1963 Đoàn rời Hải Ninh về Hà Nội kết thúc cuộc khảo sát con đường xuất dương của nhóm thanh niên Việt Nam yêu nước năm 1926.

Cuộc khảo sát đã dựng lại được cuộc hành trình của sự kiện lịch sử năm 1926. Sau đây là những nét chính của cuộc hành trình đó.

*
*      *

Giữa năm 1926, về đến Vinh, Lê Duy Điếm trực tiếp gặp gỡ 5 thanh niên trí thức yêu nước trong tổ chức Hưng Nam của cụ Giải nguyên Lê Huân là Trần Phú, Tôn Quang Phiệt, Nguyễn Văn Lợi, Nguyễn Ngọc Ba và Hoàng Văn Tùng. Tiếp đó, tại Vinh, Vương Thúc Oánh giới thiệu với Lê Duy Điếm 2 người nữa là Phan Trọng Bình và Phan Trọng Quảng. Đồng thời, Nguyễn Văn Lộc (Hoàng Lùn) cũng giới thiệu thêm Nguyễn Văn Đắc và Nguyễn Văn Khang.

Tháng 7-1926, đoàn xuất dương do Lê Duy Điếm tổ chức và dẫn đường khởi hành sang Quảng Châu. Đoàn gồm 10 người : Lê Duy Điếm, Trần Phú, Tôn Quang Phiệt, Phan Trọng Bình , Phan Trọng Quảng, Nguyễn Ngọc Ba, Nguyễn Văn Lợi, Hoàng Văn Tùng, Nguyễn Văn Đắc và Nguyễn Văn Khang.

Thượng tuần tháng 7, đoàn lên đường, chia làm ba tốp, xuất phát từ hai nơi : ga xe lửa Vinh và ga Thanh Hoá. Ngày 13-7-1926 cả đoàn gặp nhau tại khách sạn Nam – Lai số 95 phố Hàng Lọng trước cửa ga Hàng Cỏ (tháng 2-1964 ông Đào Duy Kỳ cùng hai ông Tôn Quang Phiệt và Phan Trọng Bình tìm đến khách sạn Nam Lai. Ngôi nhà cũ ba tầng của khách sạn vẫn còn nhưng đang được tu sửa, lúc đó mang biển số nhà 107 đường Nam Bộ, nay là đường Lê Duẩn). Riêng Nguyễn Văn Đắc và Nguyễn Văn Khang đợi đoàn ở bến tàu thuỷ Hải Phòng đi Mũi Ngọc (Quảng Ninh). Đoàn ở lại Hà Nội một ngày, sáng 15-7 lên xe lửa xuống Hải Phòng. Đến Hải Phòng, đoàn ở tại khách sạn Việt Nam Lâu phố Hàng Cháo để thăm thú tình hình và chờ tàu thuỷ đi Mũi Ngọc. Chiều 16-7 đoàn (đủ 10 người) xuống tàu E-mơ-rốt, sáng 17-7 tới Mũi Ngọc. Mặc dù đoàn lên đường xuất dương vào dịp Hội Tây (Quốc khánh Pháp 14-7) đám công chức an ninh có lơ là việc kiểm soát, nhưng ở trên xe lửa cũng như trong khách sạn, các tốp đều tuân theo cách đi đứng bí mật, ngồi khác toa và ở khác phòng coi như không quen biết nhau để tránh bọn mật thám để ý.

Đóng vai các thầy giáo và học sinh nghỉ hè đi du lịch, ai nấy đều ăn mặc chỉnh tề, người mặc Tây, người mặc ta, người đi giầy vải, người đi giầy da, mỗi người đều xách cặp hoặc va li. Tàu cập bến, các đồng chí lên bờ xuất trình thẻ căn cước cho một tên cẩm Tây kiểm soát. Đường từ Mũi Ngọc lên Móng Cái dài 15 cây số, không có ô tô, các đồng chí đi bộ.Con đường này hồi đó hai bên đường chỉ toàn bãi cát với những bụi dứa dại, không có làng mạc sầm uất và cây cối mát mẻ như bây giờ. Trời nắng, đường xa, không một quán nước trên quãng đường dài. Khát nước và mệt. Gần trưa trời càng nắng, ai nấy mồ hôi nhễ nhại, áo quần xộc xệch không còn vẻ đàng hoàng như lúc mới lên bờ nữa.Trần Phú vốn người gầy yếu (năm đó 22 tuổi), Phan Trọng Quảng 17 tuổi, trẻ và khoẻ nhất đoàn  xách hộ va li cho ông để ông đi người không đỡ mệt. Đi  khoảng 11 cây số tới xóm Giếng Guốc, có một quán bán nước hột é của người Hán . Mọi người không quen nhưng vì khát quá cũng đành uống. Sau khi nghỉ ngơi uống nước,đoàn tiếp tục cuộc hành trình,rẽ vào một con đường nhỏ phía bên phải đi tiếp 2 cây nữa đến xóm Pò Hền để tìm đường mòn ra bờ sông Bắc Luân nơi biên giới. Đến đây, Lê Duy Điếm quên đường, anh bảo cả đoàn ngồi chờ để anh đi dò đường. Đợi hơn một giờ đồng hồ vẫn chưa thấy Lê Duy Điếm trở lại. Cả đoàn rất sốt ruột. Cùng lúc đó, có một người đàn ông dáng khả nghi đến tò mò hỏi chuyện các anh một lúc rồi bỏ đi. Thấy tình huống diễn ra không thuận, cả đoàn hội ý bàn kế hoạch đối phó một khi xảy ra chuyện không may. Mọi người quyết định không ngồi đợi Lê Duy Điếm nữa, cứ chiếu theo phương Bắc mà tìm đường ra biên giới, nếu địch phát hiện ra đuổi theo thì quăng hết va li, cặp để chạy cho dễ. Các anh vừa ra khỏi xóm Pò Hền thì gặp Điếm quay trở lại cho biết đã tìm ra đường. Các anh rảo bước đi theo Điếm, nhưng mới đi được một quãng thì thấy ở đằng xa một toán lính đang đi lại. Mọi người quẳng hết cặp, va li lại chạy băng qua cánh đồng, vượt đồi Phổ Xíu Lẻng tới bờ sông nhảy xuống nước lội sang bờ bên kia. Tới chỗ nước sâu gần lút cổ thì gặp đò của trạm liên lạc ở bến đò Nà Sáo Tụ bên bờ Bắc sông Bắc Luân sang đón. Tám người nhanh chân chạy trước được đưa  lên đò qua biên giới an toàn. Tôn Quang Phiệt và Hoàng Tùng chạy chậm, chưa kịp tới bờ sông thì bị lính biên phòng bắt.

Như vậy, khoảng 5 giờ chiều 17-7-1926 Tám người của đoàn xuất dương, trong đó có Trần Phú đã vượt biên an toàn tới trạm liên lạc của Tổng bộ tại bến đò Nà Sáo Tụ bên bờ Bắc sông Bắc Luân, một con sông biên giới, bên này là Móng Cái đất Việt Nam, bên kia là Đông Hưng đất Trung Quốc.

Chủ nhân ngôi nhà tranh nhỏ, nơi làm trạm liên lạc của Tổng bộ, là gia đình ông Đỗ Phát Khang (tức ông Cộc), một người Việt Nam yêu nước quê gốc ở xã Xuân Ninh huyện Móng Cái. Ông theo gia đình sang Đông Hưng từ năm 16 tuổi, năm 1926 ông 57 tuổi. Ông đã tham gia Việt Nam Quang Phục Hội và Việt Nam Quang Phục Quân của cụ Phan Bội Châu. Từ năm 1923 ông được giao phụ trách cửa ngõ liên lạc với trong nước ở Đông Hưng. Sau khi Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên thành lập, Tổng bộ vẫn sử dụng trạm liên lạc này. Ông Cộc cùng gia đình dựng một ngôi nhà tranh nhỏ ở bến đò Nà Sáo Tụ bên bờ Bắc sông Bắc Luân đối diện với Móng Cái. Để có kế sinh nhai và che mắt địch, ông vừa làm thầy lang, thầy cúng, vừa làm nghề chở đò và câu cá bằng thuyền. Ông nuôi một con cộc (tức chim cốc) để nó giúp bắt cá, vì lẽ đó, các đồng chí thường qua lại nơi đây gọi ông là ông Cộc. Người chèo đò ra giữa sông Bắc Luân đón đoàn là Đỗ Đức Nghiệp con trai cả ông Cộc năm đó 21 tuổi. Các đồng chí Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu, Đinh Chương Dương, Lê Duy Điếm… của Tổng bộ đã nhiều lần qua lại trạm liên lạc này. Sau lần xuất dương của đoàn Trần Phú năm 1926, trạm liên lạc ở bến đò Nà Sáo Tụ bị lộ, các đồng chí đi đoàn xuất dương thứ hai sau đó mấy ngày khi đến Móng Cái đã bị bắt toàn bộ chỉ trừ Nguyễn Công Thu và Nguyễn Danh Thọ nhân lúc mưa to chạy thoát qua cầu Bắc Luân sang Đông Hưng. Trước tình hình đó Tổng bộ quyết định bí mật rời trạm liên lạc về làng Cống Chạp huyện Long Châu cách Ải Nam Quan (nay là Hữu Nghị Quan) ở biên giới tỉnh Lạng Sơn khoảng 5 cây số.

Ngày 18-7-1926, Lê Quảng Đạt (tức Hoàng Cao) và Ả Sần (tức Trần Đức Hoa), hai cán bộ của Tổng bộ được Nguyễn Ái Quốc phái từ Quảng Châu về Đông Hưng tìm đến trạm liên lạc Nà Sáo Tụ đón đoàn. Lê Quảng Đạt trong bộ quân phục sĩ quan quân đội Trung Quốc đưa 8 đồng chí tới trại lính Tiêu Lâu Lĩnh ở trên một ngọn đồi nằm bên bờ sông Bắc Luân ngay cạnh thị trấn Đông Hưng.

Ngày 19-7, tám đồng chí thay trang phục, đóng vai học sinh quân được tuyển đi học trường quân sự Hoàng Phố ở Quảng Châu. Ngày 20-7, cả đoàn rời trại lính đến ở khách sạn Thuận Hưng Lâu cũng ở thị trấn Đông Hưng. Mấy ngày sau, Ả Sần dẫn đến khách sạn hai thanh niên mới từ trong nước ra là Nguyễn Công Thu và Nguyễn Danh Thọ để nhập vào đoàn chờ đi Bắc Hải. Hai đồng chí Thu và Thọ đi trong đoàn xuất dương thứ hai sau đoàn của Trần Phú mấy ngày. Đoàn thứ hai chủ yếu là các thanh niên học sinh người Thái Bình, Nam Định và Thanh Hoá do Lê Hữu Lập tổ chức và dẫn đường. Khi tàu thuỷ đỗ ở bến Mũi Ngọc, Thu và Thọ đã xuống tàu để đi thuyền ngược sông Ca Long lên thị trấn Móng Cái. Thuyền vừa cặp bến thì trời đổ mưa rất to, bọn cảnh sát đều chạy cả vào trong đồn để trú mưa. Hai người đã nhân lúc chúng sơ hở bảo nhau chạy nhanh qua cầu Bắc Luân và sang Đông Hưng vô sự. Đến Đông Hưng, các đồng chí hỏi thăm đường ra bến đò Nà Sáo Tụ. Tại trạm liên lạc ở bến đò, hai người đã gặp Hoàng Cao và Ả Sần.

Trong thời gian ở khách sạn, cứ đến tối thì Ả Sần đưa các đồng chí đi chơi phố. Để giữ bí mật, mỗi lần Ả Sần chỉ đưa hai, ba người, tốp này về, tốp khác mới đi. (Ả Sần tức Trần Đức Hoa, tên thật là Nguyễn Nhật Tân nguyên là thợ may, quê huyện Thanh Oai tỉnh Hà Đông đã xuất dương sang Trung Quốc từ năm 1912 hoạt động trong tổ chức Việt Nam Quang Phục Hội của cụ Phan Bội Châu. Tổng bộ giao ông cùng Lê Quảng Đạt về Đông Hưng đón các đồng chí từ trong nước ra. Đoàn của Trần Phú là đoàn xuất dương đầu tiên mà Ả Sần đón. Tháng 1-1964, 72 tuổi, Ả Sần về sống ở trong nước. Tháng 3-1964, BTCMVN đã mời ông gặp mặt và làm việc. Trong buổi gặp mặt đó, ông đã xác nhận những chi tiết liên quan đến sự kiện đón đoàn xuất dương ở Đông Hưng và tặng Bảo tàng cái tẩu điếu ông đã dùng từ  năm 1923).

Khoảng 26, 27 tháng 7, đoàn trở lại trại lính Tiêu Lâu Lĩnh một ngày, chờ đến đêm thì cùng Lê Quảng Đạt ra bến thuyền Đông Hưng  và xuống một thuyền buồm lớn đi Bắc Hải. Đêm hôm ấy, khi thuyền ra đến khơi thì gặp bão. Mười người của hai đoàn xuất dương đều bị say sóng, nằm li bì trong khoang. Chủ thuyền cho mổ lợn cúng trời. Sáng hôm sau bão dứt, tuy mệt nhưng các đồng chí được ăn một bữa cháo lòng rất ngon. Đến Bắc Hải, liên lạc của Tổng bộ bố trí đoàn đón tàu thuỷ từ Hải Phòng qua Bắc Hải đi Quảng Châu. Chuyến tàu này thông thường đều ghé qua Hương Cảng rồi mới đi Quảng Châu, nhưng bữa ấy ở Hương Cảng có bãi công lớn nên tàu không ghé vào được mà đi thẳng Quảng Châu.

Đến Quảng Châu, đoàn xuất dương được bố trí ăn, ở, sinh hoạt, học tập ngay tại nhà 13-15 Văn Minh lộ (*), trụ sở của Tổng bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Người lo xếp đặt chỗ ăn ở, sinh hoạt cho đoàn là Đặng Thái Thuyến. Đoàn được nghỉ ngơi một tuần để nghe phổ biến các thông tin cần thiết, học hát Quốc tế ca, đi viếng mộ Phạm Hồng Thái ở Hoàng Hoa Cương và thăm một số di tích. Tiếp đó, “Toàn thế giới bị áp bức dân tộc liên hiệp Hội” tổ chức buổi liên hoan đón tiếp đoàn ngay tại trụ sở Tổng bộ.

Sang tháng 8-1926, lớp huấn luyện chính trị bắt đầu học. Lớp có 20 học viên. Chương trình huấn luyện chủ yếu là nội dung cuốn Đường Cách Mạng do Nguyễn Ái Quốc viết. Giảng viên chính là đồng chí Vương (Vương Sơn Nhi tức Nguyễn Ái Quốc), ngoài ra còn có Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu cùng một số giảng viên người Liên Xô và Trung Quốc.

Lớp học kéo dài khoảng hai tháng. Trong thời gian đó, các học viên vừa học tập phương pháp hoạt động thực tiễn vừa nghiên cứu lý luận. Hàng tuần, các học viên có một buổi sinh hoạt, tập diễn thuyết, đọc sách báo, hát các bài ca cách mạng. Trong những buổi sinh hoạt này, cả lớp đều hát vang bài ca Quốc tế do ông Vương dạy. Chính Nguyễn Ái Quốc đã dịch Bài ca Quốc tế của Eugène Potier, người chiến sĩ Công xã Pa-ri năm xưa, ra tiếng Việt theo thể thơ lục bát để dạy cho các học trò của mình, các nhà cách mạng vô sản đầu tiên của Việt Nam. Toàn văn bản dịch năm 1926 của Nguyễn Ái Quốc như sau :

Hỡi ai nô lệ trên đời

Hỡi ai cực khổ đồng thời đứng lên.

Bất bình này chịu sao yên

Phá cho tan nát một phen cho rồi.

Bao nhiêu áp bức trên đời

Sạch sành sanh phá cho rồi mới tha.

Cuộc đời nay đã đổi ra

Ta xưa con ở, nay là chủ ông.

Trận này là trận cuối cùng

Ầm ầm đoàn lực, đùng đùng Đảng

Lanh-te-rơ-na-xi-on-na-lơ

Ấy là nhân đạo, ấy là tự do.

Trong quá trình học, các học viên của lớp đều đoán đồng chí Vương có lẽ chính là Nguyễn Ái Quốc nổi tiếng, nhưng không ai dám hỏi và cũng không ai dám nói với ai.

Cuối chương trình học, đồng chí Vương giải thích về Đảng, và nói : “Làm cách mạng phải có Đảng lãnh đạo, nhưng Đảng phải từ trong quần chúng mà tổ chức ra. Các đồng chí học xong  về nước hoạt động để sau này sẽ tổ chức Đảng”.

Khi lớp huấn luyện kết thúc, đồng chí Vương đề nghị Tổng bộ bố trí cho Trần Phú trở về nước một thời gian ngắn rồi trở lại Quảng Châu để sang Matxcơva theo học tại Trường Đại học Phương Đông của Quốc tế cộng sản. Đồng thời Người giao nhiệm vụ cho sáu người trong đoàn xuất dương trở về nước gây dựng cơ sở và tiếp tục tìm chọn người đưa sang Quảng Châu học tập : Nguyễn Công Thu, Nguyễn Danh Thọ về Bắc kỳ; Nguyễn Ngọc Ba, Phan Trọng Quảng về Trung kỳ; Phan Trọng Bình, Nguyễn Văn Lợi về Nam kỳ.

Một ngày đông cuối năm 1926, các đồng chí chào tạm biệt đồng chí Vương, người thầy, người anh, người lãnh đạo đã mở đường dẫn lối cho các đồng chí đi vào con đường sáng để rời Quảng Châu về nước. Đồng chí Vương lưu luyến chia tay các học trò của mình và dặn dò tỉ mỉ từng người những việc cần làm để tránh con mắt dò xét của mật thám, những điều cần chú ý khi hoạt động bí mật…

 ĐẶNG HOÀ sưu tầm và giới thiệu

 

* Ngôi nhà này hiện nay đã được chính quyền thành phố Quảng Châu xếp hạng di tích lịch sử. Phía dưới là cửa hàng của người Trung Quốc, nhưng trên góc tường có trưng bày ảnh và tài liệu liên quan đến VNCMTNH. Đây là một điểm tham quan du lịch của phần lớn các đoàn đến từ Việt Nam. Hiện nay là số 248 – 250 đường Văn Minh, Quảng Châu.