Đường về Lam Kinh

Lam Kinh, nay thuộc xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, cách thành phố Thanh Hóa khoảng 50km. Nơi đây là căn cứ địa đầu tiên của cuộc khởi nghĩa chống quân đô hộ nhà Minh ở thế kỷ 15, là quê hương của vị anh hùng dân tộc Lê Lợi (1385 – 1433) và một số danh tướng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn như Lê Lai, Lê Thạch, Lê Khôi… Lam Kinh còn là nơi thờ cúng có cả bia, mộ của một số vua và hoàng hậu nhà Hậu Lê.

Trước kia, đường đi tới Lam Kinh phải qua cầu phà khó khăn. Nhưng hiện nay, du khách có thể tới nơi đây bằng đường bộ một cách dễ dàng, hoặc nếu có thì giờ, thì đi thuyền theo đường thủy, dọc sông Mã, sông Chu để có thể được thưởng ngoạn phong cảnh hai bên bờ.

Bậc rồng đá còn lại ở Lam Kinh – Ảnh tư liệu

Đến địa đầu xã Xuân Lam, du khách đi qua cầu Mục Sơn bắc qua sông Chu. Đây là con sông đã ghi lại nhiều truyền thuyết về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, như trận Lạc Thủy, đánh giặc Minh năm 1418, việc dùng kế lội sông, phủ bèo trên đầu để tới gần thuyền địch, giành lại di cốt của các vị thân sinh của Lê Lợi bị quân Minh đào lấy cắp…

Nhìn sang phía hữu ngạn sông Chu là núi Mục, hình dáng giống như một con cóc khổng lồ. Người xưa ví quả núi là mắt rồng, một khi giặc đến xâm phạm khu căn cứ nghĩa quân là mắt rồng sẽ sáng rực lên! Mục Sơn là quê của Nguyễn Thuận, người em kết nghĩa của Lê Lợi, tương truyền có lần thả lưới đánh cá đã bắt được thanh gươm có đề hai chữ “Thuận Thiên”, ứng với điềm trời trao phó sứ mệnh phất cờ khởi nghĩa cho Lê Lợi. Dưới chân núi Mục còn có bia Lê Lai dựng năm 1850, ghi lại việc Lê Lai liều mình cứu Lê Lợi trong trận Chí Linh. Cách bia này vài cây số, ở địa phận làng Tép còn có đền thờ Lê Lai vừa mới được trùng tu lại…

Đi tiếp nữa về phía bên phải là đền thờ các vua Lê. Phía trái là bia Vĩnh Lăng, làm bằng một phiến đá lớn cao 2,97m, rộng 1,94m, dày 0,27m đặt trên lưng một con rùa lớn cũng bằng đá, dựng năm 1433, trên mặt bia ghi tiểu sử và công lao của vua Lê Thái Tổ do Nguyễn Trãi soạn. Bia được trang trí hình rồng mây, hoa, lá, hình tròn, vuông biểu thị trời tròn đất vuông và thiên tử. Đây là tấm bia vào loại lớn và đẹp nhất trong số bia hiện có ở Việt Nam.

Tiếp tục đi qua những dãy cây cổ thụ, trong đó có cây đa đã mấy trăm năm tuổi, du khách sẽ đến được khu vực chính điện là nơi trước kia có nhiều công trình đồ sộ, để hàng năm triều đình tới tế lễ, tưởng niệm công đức của các vua Lê. Tiếc rằng, hiện nay các kiến trúc đó không còn nữa, chỉ thấy một số dấu tích như: con ngòi Ngọc Khê, thuở trước chảy trước cung điện, hồ bán nguyệt đã được người xưa ca ngợi: “Chen chúc hồ sen ngát vị hương”. Trước tòa chính điện hiện vẫn còn giữ được 4 con rồng đá rất đẹp, mang đặc trưng nghệ thuật thời Lê và khoảng 50 hòn đá tảng kê cột.

Cách mộ Lê Thái Tổ khoảng 5 – 6m, chếch về hướng phải là khu có các bia, mộ của một số vua và hoàng hậu. Hiện nay chỉ còn thấy 5 mộ bia. Đó là bia mộ vua Lê Thái Tông, bia dựng năm 1442 cao 1,42m, rộng 0,67m, dày 0,17m, văn bia do Nguyễn Thiên Tích soạn, ghi lại tiểu sử và công nghiệp của vua, gọi là Hựu Lăng. Bia và mộ của bà Quang Thục hoàng thái hậu, mẹ vua Lê Thánh Tông, dựng năm 1498. Bia cao 2,81m, rộng 1,95m, dày 0,27m, có hai mặt chữ do Nguyễn Bảo và Nguyễn Xung Xác soạn, ghi lại tiểu sử và đức độ của bà. Bia và mộ của Lê Thánh Tông còn gọi là Chiêu Lăng dựng năm 1498, có hai mặt chữ, do Thân Nhân Trung, Đàm Văn Lễ  và Lưu Hưng Hiếu soạn. Bia có kích thước gần bằng bia Vĩnh Lăng, hoa văn rồng khắc trên bia trông khoáng đạt, phản ánh sự nghiệp vua có công xây dựng nên một triều đại cực thịnh của chế độ phong kiến Việt Nam. Cuối cùng là bia mộ của vua Lê Hiến Tông, còn gọi là Dụ Lăng, dựng năm 1540. Bia cao 2,74m, rộng 1,93m, dày 0,4m có 61 dòng chữ, do Đàm Văn Lễ, Nguyễn Nhân Thiếp và Phạm Thịnh soạn.

Các bia mộ này đều quay về một hướng. Mộ làm bằng loại gạch nhỏ, phía trước đều có đặt tượng đá, hình các quan văn, võ, hổ, voi, ngựa chầu hai bên đường. Các bia được đặt trên lưng rùa, kiểu dáng uy nghi, bệ vệ và đều có trang trí rồng mây, hoa, lá khá đẹp.

Vào đầu thế kỷ 19, vua Gia Long sai dỡ điện miếu thờ ở Thăng Long đem về Lam Kinh, rồi từ Lam Kinh lại chuyển lên làng Bố Vệ, nay thuộc phường Đông Vệ, thành phố Thanh Hóa, để thờ các vua Lê. Nguyên đền Bố Vệ xưa thuộc thôn Kiều Đại, xã Bố Vệ, huyện Đông Sơn, là sinh quán của bà hoàng hậu Nguyễn Thị Anh vợ vua Lê Thái Tông. Khi còn sinh thời, bà cho dựng điện Chiêu Hoa ở nơi đây, để lấy chỗ nghỉ ngơi khi về thăm quê. Năm 1460, vua Lê Thánh Tông cho sửa lại điện này và đổi tên là điện Hoàng Đức, để thờ Thái hậu Nguyễn Thị Anh, khi bà mất. Năm 1805, vua Gia Long cho dời đền thờ các vua Lê ở Lam Kinh về điện Hoàng Đức để thờ tại đây và người ta quen gọi là đền nhà Lê hay đền Bố Vệ.

Đền có kiến trúc thời Lê – Nguyễn, buổi đầu tất cả các pho tượng, bài vị và đồ minh khí thờ các vua Lê ở Thăng Long và Lam Kinh đều tập trung về đây, nhưng đến nay đã bị mất một phần lớn. Chỉ có tượng Lê Lợi bằng đồng, tư thế ngồi như thật đặt ở chính tẩm, hai bên tả hữu có tượng Nguyễn Trãi và Lê Lai. Những pho tượng này do một nhà tư sản cung tiến năm 1935.

Hàng năm, cứ đến ngày 21, 22 tháng 8 âm lịch, nhân dân khắp nơi đã nô nức kéo về Lam Kinh và Bố Vệ để dự lễ tưởng niệm công đức của vị anh hùng cứu nước Lê Lợi, đại công thần Lê Lai và các vị vua Lê đã có công giành lại độc lập và xây dựng đất nước. Vì vậy mới có câu: “Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi”.

Người về dự lễ, ngoài việc thắp hương tưởng niệm, tham quan một khu thắng cảnh và di tích lịch sử quý giá, còn được xem trình diễn các điệu múa, trò chơi truyền thống như điệu múa Xuân Phả, trò chơi Bình Ngô phá trận…, nghe các tiếng chiêng, cồng, trống cất lên cùng với giọng đọc bài cáo Bình Ngô âm vang giữa núi rừng thiêng liêng hào hùng! Du khách còn được thưởng thức một số đặc sản của địa phương như bưởi, mía, ổi, đường sông Lam và bánh gai Tứ Trụ vốn nổi tiếng từ xưa.

Trong không khí lễ hội, khu di tích Lam Kinh như hiện ra trước mắt mọi người, vẻ nguy nga, hùng vĩ giống như hình tượng đã được mô tả trong các tác phẩm Lam Sơn lương thủy phú của Lê Thánh Tông, Phú Lam Sơn của Nguyễn Mạnh Tuân, bài họa thơ Lê Thánh Tông về đề tài Lam Sơn của Nguyễn Xuân Xác, Thân Nhân Trung, Đào Cử…

Tuy toàn bộ công trình kiến trúc ở Lam Sơn thuở xưa nay không còn nữa, nhưng du khách vẫn còn thấy một số di vật mà danh nho Ngô Thì Sĩ đã mô tả trong bài thơ Lam Sơn ký sự, sáng tác từ thế kỷ 18:

Sông Lương dòng chảy nước trong ngần,

Ngăn ở đôi bờ dãy cọc can

Miếu mạo công thần xen mái cỏ

Lăng phần liệt thánh lẫn cây ngàn

Dân chài Lam Vĩ chăm lo thuế

Đèn quan Huyền Thiên rực rỡ xuân

Tế lễ mấy lần từng được dự

Nghi văn càng hỏi sáng thêm dần.

Võ Thanh Phụng